Thiền sư Mật Hạnh, húy Minh Vi, thọ giới quy y với Hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh tại chùa Giác Lâm.
Thiền sư Giác Ngộ húy Tánh Thông, hiệu Sơn Nhân, họ Nguyễn, quê ở phủ Gia Định thuộc phái thiền Lâm Tế, đời 39, đệ tử của Hòa thượng Đạo Dụng Đức Quảng.
Thiền sư Pháp Thông Thiện Hỷ thuộc phái thiền Tào Động thế hệ thứ 36.
Thiền sư Tịnh Giác Thiện Trì, húy Tánh Ban, hiệu là Mộc Y Sơn. Ông thường được gọi là Ông Núi hay Ông Núi mặc áo vỏ cây, tên là Lê Ban, người Trung Hoa, không rõ năm sinh năm mất.
Hòa thượng Hoàng Long (? – 1737) quê ở Bình Định vân du vào Hà Tiên, đến ở phía Bắc núi Vân Sơn năm dặm lập chùa tu hành (sau gọi là núi Bạch Tháp). Cảnh chùa thanh tịnh, u tịch, thế núi quanh co, có cây cảnh đẹp.
Thiền sư Khánh Long chưa rõ quê quán, tông phái và hành trạng; chỉ biết Sư lập chùa Khánh Long ở gò Quít huyện Phước Chánh, trấn Biên Hòa. Cảnh chùa Khánh Long được du khách đặt bài thơ ca ngợi như sau:
Ni cô họ Lê thế danh là Lê Thị Nữ, không biết quê quán ở đâu, chỉ biết lúc chưa xuất gia cô thuộc gia đình nhà giàu, trẻ đẹp, hiếu thảo, lo phụng dưỡng cha mẹ, không chịu lấy chồng. Sau khi cha mẹ mất mới chịu xuất giá, nhưng không bao lâu thì chồng chết. Bà không chịu tái giá, nhưng bị nhà quyền thế áp bức, vì vậy bà xuống tóc xuất gia tu hành.
Ni cô họ Tống thế danh là Tống Thị Lương là con một nhà giàu ở Hà Tiên, thùy mị, siêng năng, giỏi về nữ công, giàu nữ hạnh.
Thiền sư Sùng Phạm (1004 – 1087) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi).
Thiền sư Giác Hải (覺海, 1024 (? 1023) – 1138) là người họ Nguyễn, húy Nguyễn Viết Y (Nguyễn Quốc Y), pháp hiệu Giác Hải tính chiếu đại sư bài vị chùa Viên Quang ghi Diệu thông xung mặc hoằng hóa đại pháp sư là thiền sư Việt Nam thời nhà Lý, thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông.
Hòa thượng Minh Vật Nhất Tri thuộc phái thiền Lâm Tế đời pháp thứ 34
Thiền sư Thành Đẳng Minh Lượng là đệ tử của Tổ sư Nguyên Thiều Siêu Bạch, thuộc phái thiền Lâm Tế, thế hệ thứ 34, hiện chưa biết rõ quê quán và hành trạng của Ngài…