Hòa thượng thuộc dòng thiền Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 39, pháp danh Ngộ Đạo, pháp hiệu Từ Vân. Ngài thế danh Đinh Công Thân, sinh năm Bính Dần (1866), tại làng Định Yên, huyện Lấp Vò, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Thân phụ là cụ ông Đinh Công Thành và hiền mẫu là cụ bà Lê Thị Hoài. Gia đình có 7 anh em, ngài thứ tư.
Hòa thượng Thích Hiển Kỳ, thế danh Trần Quốc Lượng, tự Trần Quốc Ngỡi, Trần Cát Tường (lúc ở Trung Quốc), pháp danh Đắc Chân (khi tu đạo Minh Sư), pháp tự Nhiên Công, pháp hiệu Hiển Kỳ, xuất thế năm Quý Hợi (1863), quê ở tại xóm Rạch Quau, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.
Hòa thượng Thích Liễu Lạc, thế danh Trương Văn Trình, sinh năm 1878 (Kỷ Mẹo), vốn là bậc đại điền chủ, nổi tiếng nhân hậu, đạo đức khắp vùng. Phụ thân là cụ ông Trương Văn Thêm, mẫu thân là cụ bà Nguyễn Thị Em. Ngài là người con út trong gia đình có bốn anh chị em.
Hòa thượng họ Nguyễn, pháp húy Như Chương, pháp tự Giải Nghĩa, pháp hiệu Vạn Pháp, nối pháp Thiền phái Lâm Tế đời thứ 41, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh.
Chung quanh cuộc đời của sư Nguyệt Chiếu có rất nhiều giai thoại và những lời đồn đại khác nhau; có người nói rằng ông vốn là người tỉnh khác đến Bạc Liêu sinh sống, có người nói ông là một chiến sĩ của phong trào Cần Vương đến ẩn lánh ở Bạc Liêu trong lớp áo nhà tu, cũng có tin đồn rằng ông chính là tác giả của bài thơ Dạ cổ hoài lang và ông Cao Văn Lầu đã căn cứ vào bài thơ này để phóng tác ra nhạc… Người ta nói đến ông thì nhiều, nhưng tên họ của ông thì không ai nói đến.
Hòa thượng Thích Bửu Phước, pháp húy Hồng Thiện, pháp hiệu Bửu Phước, nối pháp đời thứ 39 dòng kệ Lâm Tế chánh tông. Ngài thế danh Nguyễn Văn Hương, sinh năm Canh Thìn 1880, tại làng Tân Bình Đông, nay thuộc huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Sử và hiền mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phố.
Hòa thượng Thích Nhơn Sanh, pháp húy Trừng Tương, pháp tự Thiện Thọ, pháp hiệu Nhơn Sanh, nối pháp dòng Lâm Tế, đời thứ 42 pháp phái Liễu Quán. Ngài thế danh Võ Sanh, sinh ngày 05 tháng 5 năm Bính Thân (1896), tại làng Ngọc Hội, xã Vĩnh Ngọc, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Thân phụ là cụ ông Võ Tú, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lịch. Ngài là con đầu trong gia đình gồm 6 anh em.
Hòa thượng pháp danh Thiện Quang, pháp húy Hồng Xưng, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40, thế danh là Nguyễn Văn Xứng, sinh năm Ất Mùi 1895, tại Giồng Keo, nay là ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Thân phụ là ông Nguyễn Văn Chiếu và thân mẫu là bà Võ Thị Sáng, là một gia đình phú nông nhiều đời tích đức. Ngài là con thứ năm và là con trai duy nhất trong một gia đình có bảy anh chị em.
Hòa thượng thế danh Nguyễn Văn Thọ, sinh năm Ất Hợi (1875), tại làng Kim Bồng, xã Cẩm Kim, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Thái, pháp danh Chương Bằng và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Trữ. Được sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời theo Phật, nên ngài sớm có chí nguyện thoát trần.
Hòa thượng Thích Huệ Viên, thế danh Đào Văn Chỉ, pháp húy Ngộ Chỉ, pháp hiệu Tâm Viên, sinh năm 1884, tại Cái Nhum, Nha Mân, Sa Đéc – nay là ấp Tân Thạnh, xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là Đào Văn Thiện, thân mẫu là Võ Thị Thường. Ngài là con trai thứ trong gia đình có hai anh em trai. Huynh trưởng là ông Đào Văn Hóa. Tộc họ Đào khá nổi tiếng ở xã Tân Nhuận Đông.
Hòa thượng pháp húy Bổn Từ, pháp tự Chơn Minh, pháp hiệu Từ Hóa, thế danh Nguyễn Văn Nhu, sanh năm Canh Tuất (1909), tại xã Phước Tường, tổng Bảo Hòa, quận Sóc Sải (nay là huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre).
Hòa thượng pháp danh Thái Hòa, thế danh là Đỗ Trân Bảo, sinh năm Tân Sửu 1901, tại xã Mai Xá, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Xuất thân từ một gia đình nhà Nho nghèo, từ nhỏ ngài đã được thân phụ kèm cặp chữ Hán.