Chùa Lê Xá, xã Đa Tốn được Ủy ban nhân dân TP Hà Nội ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử nghệ thuật ngày 19-3-2007. Chùa thuộc địa phận thôn lê Xá nên còn được gọi là Lê Xá hay chùa Một Mái. Chùa có tên chữ là “Khánh Quang Tự”.
Qua các đợt nghiên cứu khảo sát, cho đến nay chưa có tài liệu nào ghi chép cụ thể về niên đại khởi dựng chùa. Căn cứ vào các tư liệu Hán Nôm có niên đại sớm nhất hiện còn trong di tích, đó là bài minh trên quả chuông “Khánh Quang tự chung” được đúc vào năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) cho biết: “thôn Lê Xá, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh hương trưởng, thôn trưởng, chức dịch cùng khắp trên dưới trong xã đúc một quả chuông…”. Nội dung bài minh trên chuông tuy không nhiều và không cho biết về niên đại khởi dựng cụ thể của ngôi chùa nhưng giúp ta có cơ sở đoán định niên đại khởi dựng của di tích chắc chắn phải được dựng trước thời điểm đó rất lâu và được trùng tu nhiều lần vào cá năm Minh Mệnh thứ 19 (1839) và tháng 2 năm Kỷ Tỵ (1953).
Nằm trên một khu đất thoáng, rộng ở ngay giữa làng, giáp với đường đi thuận lợi cho khách hành hương mỗi khi muốn tới thăm di tích. Chùa Lê Xá có quy mô kiến trúc giản dị, khiêm tốn trong một khuôn viên khá rộng và hài hòa với cảnh quan môi trường. Xung quanh chùa có nhiều cây lưu niên rợp mmats đã tạo cho di tích thêm vẻ thâm nghiêm, cổ kính… Do nhiều nguyên nhân nên ngôi chùa không còn bảo lưu được lối kiến trúc gốc của lần khởi dựng ban đầu, kiến trúc của chùa hiện nay theo kiểu chữ công. Các công trình kiến trúc của chùa bao gồm tam quan, sân, chùa chính, nhà tổ, nhà mẫu, nhà khách…
Tam quan chùa, cổng chính dạng chồng diêm hai tầng tám mái ngói giả ống, đỉnh nóc mái tầng trên trang trí hình rồng chầu mặt trời, bốn góc mái là bốn hình lá lật. Ngăn giữa tầng mái trên và tầng mái dưới là ba chữ Hán Lớn đề “Khánh Quang tự”. Bốn góc mái dưới cũng trang trí bốn hình lá lật, diềm mái chạm hình cánh sen cách điệu. Cửa chính làm dạng “thượng song hạ bản”. Hai bên có hai câu đối bằng chữ Hán. Hai cổng bên được làm nhỏ hơn, nối các cổng là bốn trụ biểu. Trên có đắp hình bốn con phượng chụm đuôi vào nhau và hình bầu rượu.
Qua Tam quan là đến một nối nhỏ dẫn vào chùa chính. Chùa chính gồm có Tiền đường và Thượng điện. Tiền đường gồm năm gian xây theo kiểu tường hồi bít đốc tay ngai. Các gian thông với nhau bằng các cửa vòm. Sát hồi hiên Tiền đường xây trụ biểu cao, đỉnh đắp nổi hình búp sen, thân trụ để không đắp câu đối. Lòng nhà tiền đường rất hẹp, gian hồi phải đặt tượng Quan âm tống tử, tượng Thánh Tăng và Thổ Địa, gian trái là tượng Đức Ông.
Thượng điện gồm bốn gian dọc theo kiểu tường hồi bít đốc, ba gian sát với Tiền đường là nhà dạng hai mái nhưng phần kiến trúc lại tạo cho di tích có dạng chữ công, dạng một mái giống như tòa Tiền đường.
Nhà Mẫu mới được tu bổ nằm bên phải chùa chính. Nhà Tổ ở phía sau chùa gồm năm gian, trong đó ba gian giữa làm nơi thờ Tổ. Nhà được xây theo kiểu tường hồi bít đốc tay ngại, bờ nóc, bờ đinh không trang trí.
Trải qua nhiều biến động của lịch sử, nhưng hiện nay di tích còn bảo lưu được hệ thống di vật đa dạng, phong phú về thể loại và chất liệu như tượng tròn, hoành phi, câu đối, chuông đồng, bia… mang giá trị nghệ thuật nhất định, góp phần làm giàu và phong phú thêm kho tàng nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Hệ thống tượng tròn bằng gỗ của chùa gồm 31 pho bao gồm tượng phật, tượng tổ và tượng mẫu… được tạo tác tỉ mỉ, công phu. Hầu hết các pho tượng tròn của chùa đều được tạc với kích thước nhỏ, tỷ lệ cân đối, hài hoà với kiến trúc chùa, tạo cho phật điện chùa thêm phần đa dạng, hấp dẫn. Những tượng có giá trị của chùa là bộ tượng Tam Thế được bố cục cân phân, Quan Âm chuẩn để với các thế tay như một vũ nữ đang múa, tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí, Di Lặc đầy viên mãn, no đủ, tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đầu…là những tượng đạt tính chuẩn mực của nghệ thuật tạc tượng đương thời mang những nét đặc trưng của phong cách nghệ thuật tạc tượng thời Nguyễn. Bên cạnh tượng phật là các tượng Thánh Tăng, Đức Ông, tượng Tổ, tượng Mẫu mang tính chân dung cao, với lối tả thực đầy chất dân dã gắn với đời thường thể hiện nội dung, tư tưởng sâu sắc. Hệ thống tượng được bài trí cụ thể như sau:
Trên cùng là bộ tượng Tam Thế đại diện cho 3000 vị phật ở ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Tượng ngồi thiền định trên toà sen cao khoảng 1m10, tay kết ấn tam muội với hai tay chồng ngửa đặt trên lòng đùi, tóc kết bụt ốc như hình tháp cao chạy dần lên tận nhục kháo, khuôn mặt thanh thoát, phúc hậu thể hiện nét từ bi, bác ái của đạo phật, sống mũi thẳng, miệng nhỏ, tai chảy dài thể hiện sự cao quý, đức độ, mắt khép hờ thể hiện sự soi rọi chúng sinh đau khổ. Tượng mặc áo cà sa phủ hoàng kim để lộ ngực, bụng thon, các nếp áo của tượng mềm mại chảy dài xuống tận đài sen tạo thành những dường cong mềm mại và uyển chuyển.
Lớp thứ hai là tượng Quan Âm chuẩn để được tạc trong tư thế ngồi thiền định. Tượng có thân hình nhỏ, thon, cân đối, tượng gồm sáu đôi tay. Đôi tay chính chấp trước ngực, đôi tay thứ hai đặt ngửa xuống lòng đùi, các cánh tay khác đều trong các tư thế cầm vật linh và tỏa ra các hướng, đầu đội mũ tỳ lư, vành mũ trang trí hình mặt trời, vân mây và vẫn dấu hỏi. Đài sen được làm khá chắc chắn gồm hai lớp cánh…Tượng mang phong cách tạo tác ở thời Nguyễn.
Lớp thứ ba là bộ tượng A Di Đà Tam tôn. Tượng A Di Đà ngồi giữa có kích thước rất nhỏ, cao khoảng 30cm, tượng mặc áo cà sa để lộ ngực, tóc kết bụt ốc nhiều lớp, khuôn mặt hơi bầu, tròn, sống mũi cao, thẳng, tai dài, cổ hơi mập. Tượng ngồi trên đài sen hai lớp cánh. Đứng hai bên A-Di-Đà-Phật là Quan thế âm bồ tát và Đại Thế Chí bồ tát, đầu đội mũ thất phật, trên vành mũ điểm xuyết hình hoa cúc mãn khai, hoa dây, vẫn dấu hỏi, hồi văn. Các nếp áo tượng chảy dài bên A Di Đà là Quan Thế Âm bồ tát và Đại Thế Chí bồ tát, đầu đội mũ thất phát, trên vành mũ xuống tận chân thành những đường cong mềm mại, uyển chuyển.
Lớp thứ tư là tượng Thích Ca, kích thước nhỏ giống tượng A Di Đà. Tương ngồi thiền đình trên đài sen, mặc áo cà sa hai lớp, tay kết ấn chuẩn dễ, đầu đội mũ, vành mũ trang trí hoa cúc, hoa sen cách điệu.
Lớp thứ năm là bộ tượng Di Lặc, Kim Đồng – Ngọc Nữ hai bên. Tượng Di Lặc được tạc thân hình béo tốt, mập mạp thể hiện sự viên mãn, no đủ, mặc áo cà sa ít lớp ngồi hơi ngửa ra sau, chân khoanh chân chống một cách vững chãi biểu hiện của “Tinh lạc”, bụng lớn tròn, ngực to, xê. Tượng được bố cục một cách tự nhiên không bị gò bó, vẻ đẹp của tượng còn thể hiện ở dáng thư thái, thanh thản, hết ưu tư của bậc tu hành sắp đắc đạo thành phật. Bộ tượng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XX.
Lớp thứ sáu là bộ tượng Ngọc Hoàng cùng Nam Tào, Bắc Đẩu ở hai bên. Tượng Ngọc Hoàng ngồi giữa, đầu đôi mũ bình thiên, vành mũ trang trí nổi hình rồng chầu mặt trời và các vân mây, vận dấu hỏi, hoa dây…chân đi hia, tay phải cầm lệnh bài, tay trái cầm viên ngọc, mặc áo trang trí hình rồng, hoa dây, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XX.
Lớp thứ bảy là tượng Thích Ca sơ sinh và tòa Cửu Long bằng gỗ. Tượng Thích Ca sơ sinh được tạc hình một đứa bé, xung quanh thể hiện chín con rồng linh thiêng phun nước để tắm cho phật. Đây cũng là một pho tượng khá đặc biệt của chùa này vì phần lớn các tượng Thích Ca sơ sinh và toà Cửu Long thường gặp được tạc theo chủ đề ngoài chín con rồng linh thiêng phun nước cho phật tắm còn điểm xuyết vào các nhạc công đang nhã nhạc, nhưng toà Cửu Long cùng Thích Ca sơ sinh ở chùa Lê Xá thể hiện có phần đơn giản hơn nhiều, song nhìn chung đây là một pho tượng tương đối đẹp, tượng được bố cục cân xứng, hài hòa, tỷ lệ cân đối, như mang một sức sống khởi nguyên trong sáng và tươi vui.
Ngoài hệ thống tượng mang giá trị nghệ thuật cao, di tích còn đáng chú ý bởi hệ thống di vật như chuông đồng đúc năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) và các bia đá có niên đại vào thời Nguyễn, hoành phi, câu đối tập trung ca ngợi phật pháp… Tuy những di vật này đều có niên đại tạo tác ở thời Nguyễn nhưng là bằng chứng giúp cho việc xác định sự ra đời của ngôi chùa cũng như những lần trùng tu, sửa chữa, đồng thời qua đây cho chúng ta biết được tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục, tập quán, các quy định về việc bầu hậu của địa phương dưới xã hội đương thời.
Ủy ban nhân dân huyện Gia Lâm (2010), Di tích lịch sử văn hóa cách mạng kháng chiến huyện Gia Lâm, tài liệu lưu hành nội bộ.
Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/