Chùa thôn Hạ có tên chữ là “Hiển Quang tự”, thuộc thôn Hạ, xã Dương Hà, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Cách trung tâm thành phố 15km, đi theo hướng cầu Chương Dương, qua cầu Đuống rẽ phải sang hướng Phù Đổng, đi khoảng 4km là đến xã Dương Hà.
Ngoài thờ phật, ngôi chùa thôn Hạ còn thờ “hậu phật” là những người có công xây dựng chùa, do điều kiện địa hình gần sông nước nên chùa Hạ còn thờ mẫu Thoải. Chùa thôn Hạ được xây dựng liền với đình tạo thành một trung tâm tín ngưỡng của làng
Hiện tại trụ trì chùa là thầy Thích Nguyễn Thời
Dựa vào tấm bia niên hiệu Gia Long thứ 3 (1804) ghi công đức của người bản thôn trong việc tu sửa lại chùa và ghi việc bầu hậu phật khẳng định chùa Hiển Quang được xây dựng vào cuối thời Lê. Khi này chùa có quy mô lớn của phủ Từ Sơn xưa, nằm giữa trung tâm khu vực cư trú của làng.
Theo lời kể của dân làng cho biết, chùa Hiển Quang được xây dựng ở bên kia sông Đuống (bờ Nam). Thời vua Tự Đức cho khai sông làm lòng sông rộng ra, dân làng đã phải chuyển lùi vào và chuyển luôn cả chùa. Vào triều vua Thành Thái, dòng sông Đuống lại tiếp tục mở rộng, 70 mẫu đất của dân làng bị lở xuống sông, dân làng lại một lần nữa chuyển chùa vào vị trí hiện nay (sát chân đê). Mỗi lần di chuyển chùa là một lần sửa chữa lớn
Theo dịch phả chùa Hiển Quang – thôn Hạ: xưa kia nằm trong vùng đất cổ kinh bắc, bên dòng sông Đuống, có bề dày lịch sử từ nhiều thế kỷ nay, cách trung tâm Phật giáo Luy Lâu không xa. Chùa có khởi nguồn tạo dựng từ khá sớm trong lịch sử hình thành và phát triển của dân làng Hạ Dương, thuộc tổng Làng; Chùa thờ Phật tổ và thờ Tổ, là ngôi chùa lớn của hàng Tổng, xưa kia tiếng vang của Chùa hạ đã lan rộng khắp kinh Bắc và Thành Thăng Long, nên đã được nhiều Quan lại ở chốn kinh kỳ và địa phương góp công, góp của để xây dựng ngôi Chùa được khang trang qua các triều đại.
Từ năm 2005 đến 2009, nhân dân và sư trụ trì đã hưng tâm công đức xây dựng tam quan, xây mới nhà tổ, tôn tạo nhà mẫu, xây tường bao quanh làm cho di tích ngày càng khang trang.
Đến năm 2015, nhằm góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị di sản văn hóa kiến trúc, nghệ thuật truyền thống của ngôi chùa, UBND, BQL Di tích xã Dương Hà và nhân dân địa phương chính thức tổ chức lễ động thổ khởi công xây dựng toà Tam bảo
Trải qua thời gian tồn tại và phát triển với nhiều biến động của chiến tranh loạn lạc và thiên tai, chùa Hiển Quang đã được qua nhiều lần di chuyển và trùng tu sửa chữa. Tuy các kiến trúc mới đã được xây lại nhưng những công trình kiến trúc hiện còn vẫn bảo lưu được nét kiến trúc truyền thống mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Mặt bằng tổng thể của chùa Hiển Quang hiện nay gồm tam quan, sân vườn, chùa
chính, nhà thờ tổ, thờ mẫu và các khu phụ. Chùa chính được làm theo kiểu chữ đinh. Trang trí trên kiến trúc của chùa có niên đại vào thế kỷ XIX, các cấu kiện gỗ phần lớn được bào soi, kẻ chỉ. Quá giang, kẻ, các con rường chạm nổi văn thực vật với các họa tiết đơn giản, nét chạm sâu mềm mại tạo sự thanh thoát cho kiến trúc gỗ.
Cổng Tam quan chùa thôn Hạ được xây dựng trang trí rất lộng lẫy và cầu kì, gồm 3 cổng, 4 trụ, cửa chính lớn ở giữa và hai cửa phụ hai bên có diện tích nhỏ và thấp hơn.
Cửa ra vào ở giữa được xây thành 3 tầng, tầng 1 là cửa ra vào xây khung mái vòm cung, cửa gỗ, hai bên thân cột được khắc chữ Hán chạy dọc thân cột, phía trên nóc tầng 1, được đắp bức thành bức tường, hai bên có hai trụ vuông thấp, trên nóc trụ có gắn búp sen, ở giữa bức thành có chạm nổi hình cuốn thư ghi chữ Hán “寺額光”.
Tầng 2 có diện tích nhỏ hơn tầng 1, nhà khung vuông, 4 mặt xây kín, mặt phía trước có trổ hình tròn to, bên trong trang trí hình chữ Thọ, mái lợp ngói mũi hài, 4 góc đầu đao uốn cong là hình đầu rồng.
Tầng 3 được xây trên mái của tầng 2, đây là tầng có diện tích nhỏ nhất, là một khối hình vuông xây kín 4 mặt, mặt phía trước có khắc chữ Hán “界法超 ”, lợp ngói mũi hài, các góc đầu đao uốn cong hình rồng, trên nóc mái chính giữa được gắn hình bát quái.
Cửa chính giữa cách hai cổng phụ hai bên bằng một bức tường ngắn khoảng 20cm, trên bức tường đó có chạm nổi một bên là hình rồng phun nước uốn lượn, một bên chạm nổi hình chim phượng. Bức tường nối với cột trụ biểu ở hai bên, cột trụ biểu có khắc chữ Hán dọc thân cột, trên đầu cột xây hình lồng đèn trang trí hoạ tiết chim phượng, rồng, mặt hổ phù rất cầu kì, trên đỉnh cột trụ có 4 hình chim phượng hướng đuôi lên trời, đầu chúc xuống đất, kỹ thuật chạm sắc sảo và tỉ mỉ.
Hai bên cổng phụ xây theo cấu trúc 2 tầng, tầng dưới là cửa ra vào, có mái mũi hài, đầu đao uốn cong chạm hình lá, hai bên cột có khắc chữ Hán, tầng 2 là khối hình chữ nhật, hai cổng mặt trước khắc chữ Hán “方便” và “隨緣”, dịch nghĩa “Phương tiện” “tuỳ duyên”, mái lợp ngói, đầu đao uốn cong, trên nóc mái gắn hai hình đầu rồng quay mặt vào nhau chầu mặt nhật.
Nằm ở phía sau tòa Tam bảo, còn có thêm một cổng phụ, đi ra hướng khác, cổng phụ gồm 2 trụ, cửa gỗ, hai bên cột khắc chữ Hán, trên nóc mái là xây thành tấm trụ hình chữ nhật, khắc chữ Hán “門便方”, trên tấm trụ có gắn hai hình rồng chầu mặt nhật.
Qua cổng tam quan là khoảng sân lát gạch đỏ, có trồng cây và đặt các chậu cây cảnh, Tam bảo là dãy nhà 5 gian, kiến trúc hình chữ Đinh, nền nhà cao hơn nền sân 5 bậc thềm lên xuống, phía trước thềm bậc là đặt lư hương và hai cây đèn bằng đá.
Hiên nhà rộng khoảng 1m, gồm 6 cột đá trang trí hoa văn dọc thân cột, ở hai bên đầu đốc ở hiên nhà mỗi bên đặt một bức phù điêu bằng đá, bên trong tạc tượng bên trong ghi chữ Hán “佛 後 事 奉” dịch “Phụng sự Hậu Phật”. Hai đầu tường hồi hiên xây hai trụ biểu lồng đèn, trang trí hình rồng phượng hoa lá.
Các gian cửa ra vào toà Tam bảo được làm cửa bức bàn, mỗi gian có 4 cánh, kiến trúc Tam bảo kiểu chồng rường giá chiêng con nhị, vì nách kiểu kẻ suốt, trang trí rồng mây hoa lá. Bộ khung đỡ mái có sáu vì kèo, các vì kèo đều làm kiểu “thượng chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ chuyển” và “quá giang gối tường”. Các cấu kiện giá chiêng chạm hoa lá, số còn lại bào trơn và trang trí đường soi chỉ, các gian gồm các cột cái làm giá đỡ, làm cửa võng sơn thếp vàng, các cột treo các bức câu đối chữ Hán, trên cửa võng treo các bức hoành phi.
Gian bên đầu đốc tay trái là gian thờ Địa Tạng, tiếp đến là gian thờ Thánh Hiền treo bức hoành phi “量雞德里”, gian bên cạnh treo bức hoành phi “ 雲風蕭威” đặt tượng Hộ Pháp.
Gian giữa là gian thờ chính được trang trí cửa võng lộng lẫy, trang trí dày các hoạt tiết vân mây, hoa, lá, rồng, treo bức hoành phi “寺 禅 光 顯 ” dịch “ Hiển Quang Thiền tự”.
Bên trong bài trí các bức tượng thành năm lớp, nơi cao nhất của tòa phật điện là bộ tượng Tam Thế thường trụ diệu pháp thân có kích thước trung bình, dáng cân đối theo bố cục hình tháp, vững chãi có tính chất chuẩn mực. Mặt thanh, đầu nở, tóc xoắn ốc thành hàng ngang. Đỉnh nổi cao một khối u tròn trơn được gọi là “nhục kháo”. Tai tượng dài, sống mũi thẳng, mắt khép hờ nhìn xuống.
Tiếp đến là bộ tượng A Di Đà Tam tôn có kích thước tương đối lớn hơn các pho tượng khác, được tạc theo phong cách thế kỷ XVIII-XIX.
Lớp thứ ba là tượng Quan Âm chuẩn để ở giữa Kim Đồng, Ngọc Nữ ở hai bên, tư thế ngồi thiền trên bệ vuông, đầu đội mũ tỳ lư, trang trí.
Lớp thứ tư là tượng Di Lặc, tượng ngồi theo tư thế hơi ngửa ra phía sau, chân trái đặt nằm co lại, chân phải hơi chống chếch lên. Tay phải úp lên đầu gối, tay trái nằm hờ đặt ngửa lên đùi.
Lớp thứ năm là tòa Cửu long và phật Thích Ca sơ sinh ở giữa, hai bên là tượng Nam Tào, Bắc Đẩu đặt ở hai bên tòa Cửu Long, tượng ngồi trên bục, đội mũ nhị cấp, có hình mặt trời ở chính giữa. Tượng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.
Bên trong gian Hậu cung ở hai gian bên cạnh của gian giữa có đặt ban thờ Quan âm tọa sơn và quan âm chuẩn đề, toàn bộ tượng và bệ tượng được phủ sơn son thếp vàng lộng lẫy đặt trên các bệ từ thấp đến cao chạy dài vào trong Hậu cung.
Gian bên tay trái là gian treo bức hoành phi “漢星高氣” đặt tượng Hộ Pháp, gian bên cạnh là gian thờ Đức Ông, có treo bức hoành phi “測莫功神”.
Mái được lợp ngói mũi hài, hai bên bờ nóc mái được gắn đầu rồng, ở giữa mái có gắn bức cuốn thư ghi chữ “寺額光”
Nhà thờ tổ nằm phía sau nhưng song song với thượng điện và cách tòa nhà này một khoảng sân gạch. Nhà 5 gian, cao hơn nền sân 5 bậc thang lên xuống, nền lát gạch, các cửa ra vào được làm cửa bức bàn, mái lợp ngói mũi hài, trên nóc mái có gắn trụ biểu ghi chữ “繼燈堂”
Đây là dãy nhà thờ các vị Tổ sư đã có công tạo dựng hoặc trụ trì ở chùa, nay đã viên tịch
Nhà mẫu nằm ở phía sau tòa Tam bảo và cách một khoảng sân hẹp, Các vì kèo làm kiểu “giá chiêng kẻ chuyền”. Hai vì hồi làm thống nhất theo kiểu cốn mê. Trên mặt cốn mê trang trí đơn giản.
Nhà Mẫu gồm 3 gian 2 chái, cao hơn nền sân 3 bậc thang lên xuống, không có hiên nhà, 3 gian giữa là nơi đặt tượng thờ, được làm cửa gỗ bức bàn, trang trí hoạ tiết hoa lá, , 2 gian chái hai bên đầu đốc được xây kín, trổ cửa sổ, vì nóc làm kiểu giá chiêng.
Gian đầu tiên đặt ban thờ Sơn Trang, không có cửa võng, treo rèm y môn, gian giữa là gian thờ Mẫu, được làm cửa võng sơn thếp vàng, trang trí hoa văn cầu kì, hai bên cột treo các câu đối chữ Hán, gian bên trái là ban thờ Trần Triều, gian có rèm che y môn không có cửa võng.
Nhà khách là dãy nhà 3 gian 2 chái, 3 gian giữa làm cửa ra vào, 2 chái hai bên được xây kín trổ cửa sổ, gian giữa là gian thờ được đặt bức tượng Phật Quan âm chuẩn đề, trên gian thờ là bức hoành phi ghi chữ Hán “守光顯”
Hai bên gian hai bên là nơi để bộ bàn ghế để tiếp khách.
Theo tục lệ dân gian của dân làng, đến ngày 10 tháng 2 hàng năm, dân làng cùng nhà chùa tổ chức lễ hội, làm lễ và làm cơm chay ăn tại chùa.
Hiện nhà thờ Tổ có treo một chiếc khánh đồng cổ
Hệ thống tượng tròn trong di tích có giá trị nghệ thuật cao. Các pho tượng này được tạo tạc công phu, hoàn chỉnh, mỗi nhân vật đều được khắc họa bằng những nét đặc trưng riêng để nhấn mạnh, tính cách, lai lịch.
Hệ thống di vật thành văn hiện còn lưu lại di tích như văn bia, hoành phi, câu đối vừa mang giá trị nghệ thuật thuộc thế kỷ XIX vừa là nguồn sử liệu quý góp phần nghiên cứu tìm hiểu về phong tục tập quán của nhân dân địa phương. Bên cạnh đó còn một lư hương có niên đại từ thời hậu Lê.
Chùa Hiển Quang là nơi bảo lưu và phát huy những truyền thống văn hóa, nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh không thể thiếu của người dân xã Dương Hà
Năm 2003 chùa Hiển Quang được UBND thành phố Hà Nội ra quyết định xếp hạng di tích Kiến trúc – Nghệ thuật.
Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/