Chùa Yên Viên có tên chữ là Sùng Phúc, tên thường gọi là chùa Vân, thuộc làng Vân, thôn Yên Viên, xã Yên Viên, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Yên Viên xa xưa gọi là trại Yên Viên, thuộc Tiểu Hoa Lâm trang, đây là làng Việt cổ từ xa xưa đã có nghề làm bún, bánh.
Ngôi chùa nằm cách dòng sông Đuống khoảng 2km, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 14 km, sát cạnh Từ Sơn, Bắc Ninh. Nếu đi đường bộ đi qua cầu Đuống rẽ trái vào đường Thiên Đức, tiếp đến đường Yên Thường đi tiếp là đến thôn Yên Viên, ngoài ra cung đường Quốc lộ 1A, Quốc lộ 3 cũng đi qua xã Yên Viên.
Có thể di chuyển đến chùa thôn Yên Viên bằng đường ga, Ga Yên Viên
Trụ trì cũ của chùa là sư Thích Đàm Hợp trụ trì của chùa thôn Thượng được 24 năm, hiện tại chùa đã được bổ nhiệm cho thầy Thích Quảng Thịnh vào năm 2023.
Chùa thôn Yên Viên nằm trong vùng ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Phật giáo Kinh Bắc – Phật giáo Việt Nam. Do vậy cùng với sự du nhập của Phật giáo ngôi chùa đã xây dựng từ lâu đời để thờ Phật đáp ứng Nhu cầu lễ Phật cầu an của nhân dân.
Chưa có tài liệu nào lưu giữ lại được chính xác thời gian xây dựng chùa, trải qua thời gian, thiên nhiên với lũ lụt, hỏa hoạn, chiến tranh chùa thôn Yên Viên đã nhiều lần được tu sửa.
Dựa theo nội dung bài Minh khắc trên quả chuông chùa được đúc năm 1822 thì cùng năm 1822 ngôi chùa được xây dựng, tu sửa với quy mô lớn. Đến thời kỳ tạm chiếm, Pháp đã phá chùa để lấy gạch xây lô cốt, xây bốt gác, chùa trở thành hoang tàn, đổ nát.
Sau này khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, chùa có được tu sửa lại nhưng với quy mô nhỏ, chủ yếu để lấy nơi thờ Phật gồm nhà Tam Bảo. Tuy nhiên, một lần nữa chiến tranh lại tàn phá chùa làng, vào đêm ngày 20/12/1972, máy bay B52 của Mỹ ném bom thôn Yên Viên, chùa làng bị phá hủy, chỉ còn trơ lại gian hậu cung của nhà Tam Bảo.
Ngày 15/11/1993 (nhằm ngày 02 tháng 10 năm Quý Dậu), chính quyền thôn đã tổ chức Lễ khởi công xây dựng ngôi Tam Bảo của chùa. Và đến ngày 30/4/1994 (nhằm ngày 20 tháng 3 năm Giáp Tuất) thì khánh thành.
Theo thông tin mà người dân và các cư sĩ trong chùa cung cấp thì tòa Tam bảo cũ sau khi bị chiến tranh tàn phá thì chỉ còn lại gian nhà nhỏ và là ở vị trí sân chùa của hiện tại.
Vào cuối năm 2018 ngôi chùa đã hoàn thành xong tòa Tam bảo mới ở vị trí khác với quy mô rộng rãi và khang trang hơn.
Chùa thôn Yên Viên với diện tích 4580m², nằm gọn bên trong được bao bọc bởi bức tường gạch ngăn cách địa phận chùa với bên ngoài, bên trong khuôn viên chùa có khu đất rộng trồng các cây ăn quả. Chùa có kết cấu hình chữ đinh, gồm 4 tòa: Tam bảo, nhà Mẫu, nhà Tổ, nhà bếp, nhà kho, tổng quát ngôi chùa rất đơn sơ, các toà có diện tích nhỏ và đã cũ, hiện tại các ban quản lý cùng sư trụ trì chùa và nhân dân đã quyên góp để sửa sang và xây dựng thêm các khu mới và đang trong quá trình hoàn thiện.
Cổng chùa hiện tại rất đơn giản với hai cánh cửa sắt sơn đỏ trầm, nối liền với hàng rào bằng tôn phía trước chùa.
Nhà Tam bảo được xây trên nền cao nhất trong các toà, vị trí nằm đối diện với cổng chùa, từ mặt sân lên khoảng 50cm, gồm 7 bậc thang lên xuống, hai bên thành bậc là rồng bằng đá,
Tòa nhà gồm 5 gian, có hiên rộng ở phía trước và hiên ở bên đầu đốc bên phải, phần hiên rộng hơn 1m, được cấu tạo bởi 8 cột đỡ mái hiên, phần hiên phía đầu đốc gồm 5 cột gỗ đỡ mái.
Kiến trúc tòa Tam bảo hình chữ Đinh, 2 tầng 8 mái, nhà được lợp bằng ngói vẩy hến, thân nhà trên tầng 2 chạy dọc theo diện tích toà nhà được chia 5 ô hình chữ nhật, bên trong mỗi ô có ghi chữ hán: “大廣”, “嚴莊”, “寺禪福崇”, “慧福”, “悲慈”, dịch “ Quảng Đại”, “Trang Nghiêm”, “Sùng Phúc Thiền tự”, “Từ Bi”, “Phúc Tuệ”.
Sau gian hiên là vào tòa bên trong, năm gian là năm cửa ra vào, các bức cửa đều là cửa bức bàn bằng gỗ, mỗi gian đều được ghép từ 4 cánh, bề mặt cửa được chạm vẽ nổi những họa tiết hoa lá, rồng mây.
Bên trong nhà làm kiến trúc chồng rường gác chuông, bộ khung hoàn toàn bằng gỗ, gồm các cột cái và cột quân, các gian ngăn cách bằng các cột cái tạo thành các gian, nền nhà lát gạch đá hoa.
Gian bên tay trái từ ngoài vào là gian thờ Tứ Ân, gian bên cạnh là gian thờ Đức Thánh Hiền, tiếp theo là tượng Trừng Ác. Gian bên tay phải gồm: tượng Khuyến Thiện, ban Đức Chúa Ông, bên trên có bức hoành phi ghi chữ Hán “tượng Hộ Pháp Vương Thành” , tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay.
Gian quan trọng nhất là ở gian giữa, các bức tượng Phật được đặt trên các bệ gạch có chiều cao từ thấp đến cao, đây là gian để nhiều bức tượng nhất và là gian thờ chính. Trong gian hậu cung, trang trọng chính giữa là ban thờ Tam Thế Đức Phật A Di Đà, Ngọc Hoàng Thượng Đế. Bên cạnh phối thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và Quan Âm Tọa Sơn.
Các gian đều được trang trí cửa võng sơn thếp vàng, hoạ tiết hoa lá, mây, rồng chầu, phía trên cửa võng treo các bức hoành phi ghi tên bằng chữ Hán.
Toà Mẫu nằm bên phải của cổng chùa, phía trước nhà được đặt hai tượng sư tử ngồi chầu ở hai bên tăng vẻ uy nghiêm cho nhà thờ Mẫu, nằm trên nền đất cao hơn nền sân chùa 5 bậc thang lên xuống. Toà mẫu gồm ba gian, xây kiểu đầu hồi bít đốc, có hiên rộng 1m, nền lát gạch đá hoa, đầu hiên được mở cửa làm lối ra vào phụ, cột trụ ở hai bên hiên toà mẫu được khắc chữ Hán chạy dọc thân trụ, ba gian cửa ra vào được làm cửa bức bàn thượng song hạ bản chất liệu gỗ sơn, mái được lợp ngói mũi hài.
Bên trong nhà Mẫu các gian được trang trí các cửa võng sơn thếp vàng, trang trí hoa văn tỉ mỉ, gian bên trái từ ngoài vào là gian thờ Đức Thánh Trần, gian giữa là Tam toà Thánh mẫu, gian bên phải là thờ mẫu Liễu Hạnh.
Bên phải nhà Mẫu là một con đường nhỏ rộng khoảng 1m đi dẫn vào đền Yên Viên nằm ở phía sau nhà, con đường ngăn cách giữa nhà Mẫu và nhà Tổ. Nhà Tổ nằm cùng dãy ngang với nhà Mẫu, gồm 3 gian 2 chái, được xây trên nền đất cao hơn mặt sân 5 bậc thang lên xuống, ở hai bên đầu đốc của bậc thang có hai trụ biểu được khắc chữ Hán trên thân cột, hiên nhà rộng 1m, nền lát gạch đá hoa, mái lợp ngói mũi hài.
Bên trong có 3 gian phía tay phải là đặt các bức tượng Phật, còn 2 gian bên trái được xây bức tường kín ngăn cách, có cửa ra và khoá cửa. Mỗi gian đều được làm cửa võng sơn thếp vàng, trang trí hoạ tiết dày Gian phía trái có thờ tượng Bác Hồ, gian giữa đặt thờ các tượng Bồ đề Đạt Ma và hàng phía sau là 3 tượng Tam Thế, gian bên phải là đặt 3 bức tượng với tư thế ngồi khoanh chân.
Bên cạnh nhà Tổ có một khoảng sân lát gạch, đây là khoảng sân phía trước mặt nhà bếp và nhà kho , nhà bếp được quay hướng vào nhà Tổ, gồm 2 gian nhà bếp, 2 gian nhà kho, có diện tích nhỏ, thấp, lợp mái ngói đỏ, bên trong khung nhà đã xuống cấp nặng nề và bị hư hỏng nặng, ban quản lý và sư trụ trì chùa đang có phương án để xây dựng lại dãy nhà bếp và nhà kho mới trong năm 2024.
Tượng Phật Bồ Tát nằm ở vị trí đất trống ở vườn cây phía bên trái đầu đốc tòa Tam Bảo, tượng được đặt trên bệ gạch hình bát giác chiều cao khoảng 1m, trên bệ đặt đài sen và tượng Bồ tát đứng trên đài sen với dáng lưng thẳng, khuôn mặt hiền từ, tay phải giơ lên giữ ấn, tay trái cầm bình cam lồ hướng đổ xuống đất.
Hàng năm vào ngày 30 tháng chạp, chùa tổ chức lễ chúc thọ trình quan của các cụ trong làng, lễ được diễn ra trong ngày.
Vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, dân làng và nhà chùa tổ chức lễ hội làng Vân, thời xa xưa đây là nơi các quan tướng ngự khi đi đến vùng nội thành.
Ngày diễn ra lễ hội, nhân dân dâng đồ tế lễ dùng vật phẩm bằng hoa quả, rượu, xôi lên chùa, ngày hội vẫn được duy trì đến ngày nay.
ghi dòng chữ ngày tháng đúc chuông: “Minh Mạng tam niên, thập nhất nguyệt, thập ngũ nhật”, tức là chuông này được đúc vào ngày 15 tháng 11 âm lịch năm Minh Mạng thứ 3 (1822), dưới triều vua Minh Mạng.
Chuông có chiều cao hơn 1m (tính cả quai), quai chuông được chạm hình rồng ngậm ngọc, thân chuông được chia thành 4 ô vuông ngăn cách bởi các đường gờ nổi, bên trong mỗi mặt đều khắc bài văn chữ Hán.
Thân chuông chia làm bốn phần, mỗi phần cách nhau bằng năm đường gờ chỉ chạy suốt từ trên xuống đến núm chuông. Bốn núm chuông phân đều bốn mặt, kích thước bằng nhau, mỗi núm đường kính 12cm, chung quanh chạy 26 hạt lựu. Phần thân trên là 4 hình chữ nhật đứng, thân dưới là các hình chữ nhật nằm.
Miệng chuông loe rộng và trên vành miệng được trang trí dày kín bằng các hình hoa lá, phượng, rồng.
Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/