Chùa Từ Ân còn gọi là Sắc Tứ Từ Ân Tự nằm ở số 23 đường Tân Hoá, phường 14, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, đây là ngôi chùa được xây dựng ở thế kỷ XVIII thời xưa là thuộc khu Chợ Đũi. Ngoài chùa Từ Ân ở quận 6 thì còn có một ngôi chùa khác cũng có tên là chùa Từ Ân tọa lạc ở số 28-30 đường Hùng Vương, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng vào năm 1957.
Vào năm Giáp Ngọ (1744) Thiền sư Phật Ý (1725-1821) là một thiền sư Việt Nam, ông là người truyền bá dòng đạo Bổn Nguyên thuộc Lâm Tế tông vào miền Nam Việt Nam đầu tiên. Nghe lời thầy theo lớp người lư dân xuống phía nam, trên đường đi ông gặp một Tăng sĩ cùng lứa tuổi và hai người họ kết thân huynh đệ và cùng đi đến làng làng Tân Lộc (có tư liệu viết là làng Hoạt Lộc hay xóm Chợ Đũi), hai nhà sư cùng khai hoang rừng và dựng lên một am lá (khoảng năm 1744) thờ Phật. Vài năm sau, nhà sư vô danh kia tách ra lập am riêng, cách am tranh cũ vài mươi mét.
Thiền sư Phật Ý vẫn tiếp tục ở lại am cũ hàng ngày cùng dân chúng trong vùng cầu nguyện và nghe thuyết giảng về Phật pháp, tụng kinh, sám hối và đến năm (1752) sau khi Phật tử đến am ngày càng đông ông đã dỡ bỏ am tranh cất thành chùa khang trang có đủ chánh điện, nhà thờ tổ và nhà khách và đặt là chùa Từ Ân, do tài đức của Thiền Sư nên chùa trở nên có tiếng trong vùng.
Năm (1777-1802) đây là cuộc chiến 25 năm giữa triều đại Tây Sơn và nhà chính trị Nguyễn Phúc Ánh, chùa Từ Ân là nơi dành cho chúa và quan quân ở.
Năm 1822 để nhớ công ơn của ông, vua Minh Mạng là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn đã phong ông làm Hòa thượng, đồng thời cho sắc phong chùa Từ Ân là “Sắc Tứ Từ Ân Tự”.
Vào tháng 2 năm 1859, thành Gia Định bị quân Pháp đánh hạ, chùa Từ Ân bị đốt cháy sau khi các nhà sư ở đây rút chạy và chỉ kịp đem cất giấu một số món đồ, nhờ vậy mà chùa Từ Ân ở gần chợ Gạo (Phú Lâm) ngày nay còn được một số hiện vật kỷ niệm.
Năm canh ngọ (1870) Hoà thượng Như Bằng-Thanh Ấn làm trụ trì và đã xây dựng lại chùa Từ Ân mới ở Phú Lâm (quận 6, thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Diện tích đất chùa hiện nay chỉ còn khoảng 20 x 55 m = 1.100 m2. Trước mặt chùa là dòng kênh Tân Hóa – Lò Gốm, lợp ngói âm dương, cột gỗ tròn, nền gạch Tổng thể chùa xây mái thấp, gồm 3 lớp nhà :
Lớp thứ nhất là chánh điện, trên ban thờ có thờ Phật Di Đà, hai bên là Quan Âm và Thế Chí. Hai bên ban thờ chánh điện có ban thờ Đạt Ma tổ sư và ban thờ Quan Thanh với các vị Diêm Vương. Trong chánh điện còn có hai bức hoành phi chạm gỗ, sơn son thếp vàng được sắc phong của vua vào đầu thế kỷ XIX là hai hiện vật có giá trị lớn. Bức thứ nhất là “Quốc Ân Khải Tường tự” ghi phần lạc khoản “Quý Mão niên (1843) mạnh xuân cát nhật”, bức thứ hai là “Sắc Tứ Từ Ân tự” có ghi phần lạc khoản “Minh Mạng tam niên (1822)”.
Lớp thứ hai là thờ Ngọc Hoàng, hai bên có Nam Tào và Bắc Đẩu.
Lớp thứ ba thờ đức Phật Thích Ca, hai bên có tượng Ác Hữu và Thiện Hữu, ngoài ra còn có thêm ban thờ Di Lặc.
Phía sau lưng ban thờ Phật là gian thờ tổ trên đó có nhiều bài vị.
Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc
Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (1725-1821) chưa rõ chính xác ở đâu nhưng có thông tin cho rằng ông ở dinh trấn Biên ( vùng Đồng Nai và Bà Rịa sau này). Tài liệu ở chùa Đại Giác (Biên Hòa) cho biết, sư quy y với Hòa thượng Thành Đẳng-Minh Lượng ở chùa này, và được liệt vào đời thứ 35, thiền phái Lâm Tế tông.
Năm 1744 ông cùng người bạn kết thân huynh đệ đến phủ Gia Định khai hoá ruộng đất canh tác và dựng một am tranh lá tu hành, cùng nhau toạ thiền tụng kinh, học thêm kinh sách Phật giáo. Thời gian sau người bạn của ông ra lập một am tranh mới cũng gần đó để tu hành đặt tên là chùa Khải Tường.
Ông là người tu bổ am tranh khai sáng ra chùa Từ Ân ở thế kỷ XVIII, sau khi sư trụ trì của chùa Khải Tường viên tịch ông đã trụ trì luôn cả 2 chùa là chùa và trở thành hai ngôi chùa lớn và nổi tiếng nhất phủ Gia Định, tại đây ông cũng đào tạo được một số đệ tử có trình độ và đức hạnh để chăm lo cho chùa.
Trong cuộc chiến 25 năm giữa triều đại Tây Sơn và nhà chính trị Nguyễn Phúc Ánh, ông có vai trò rất lớn trong việc cho sử dụng hai ngôi chùa để làm chỗ ở cho chúa, quan quân và các phi tần nên sau đó ông được vua Nguyễn ban cho làm Hoà thượng.
Năm 1814, vua Gia Long lại phong cho đệ tử của Hòa thượng Linh Nhạc là Thiền sư Tổ Ấn Mật Hoằng làm Tăng cang chùa Thiên Mụ.
Năm 1817 ông lại được vua ban cho là Bậc giác ngộ.
Ngày 20 tháng 11 năm Tân Tỵ (1821), Minh Mạng nguyên niên, Đại lão Hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc viên tịch tại chùa Từ Ân, thọ chín mươi bảy tuổi , ông được lập tháp trong khuôn viên chùa Từ Ân.
Năm 1859 chùa Từ Ân bị quân Pháp đốt cháy, các nhà sư đã tháo chạy nơi khác.
Đến năm Quý Hợi 1923, Thiền sư Hồng Hưng tổ chức lễ thỉnh hài cốt của Tổ Phật Ý Linh Nhạc về chùa Giác Lâm và lập tháp mới bên cạnh tháp của Hòa thượng Tổ Tông Viên Quang trong khuôn viên chùa Giác Lâm.
Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc đã mang lại sự ổn định và phát triển tín ngưỡng Phật giáo, sau đó nhờ ông mà các Thiền sư của chùa đã mang Phật pháp đi hoằng hoá khắp mọi nơi.
Trụ trì tiền nhiệm
Chùa Từ Ân mới về kiến trúc tuy không rộng rãi và bề thế như chùa cũ nhưng tại đây vẫn lưu giữ lại được hiện vật quý:
Đây là kho tàng vô giá đã góp phần lưu giữ văn hóa Phật Giáo Gia Định qua nhiều thế hệ và là hiện vật có giá trị lịch sử văn hoá.
Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/