Tản Viên Sơn Thánh là ai?
Vua Cha Nhạc Phủ còn được biết tới là Đức Tản Viên Sơn Thánh, là vị thánh anh linh, tiêu biểu cho người anh hùng dân tộc chống ngoại xâm cùng nhân dân khống chế thiên tai, lũ lụt, dạy dân làm ăn sinh sống, làm ruộng, săn bắn, luyện võ, dệt lụa… được nhân dân tôn kính. Cùng với Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì ngài là vị Thánh đứng đầu trong bốn vị Thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian của dân tộc ta.
Cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều quan điểm chưa nhất quán về xuất thân của Đức Tản Viên Sơn Thánh. Vậy thông tin chi tiết thế nào? Mời quý bạn cùng tìm hiểu!
Là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ
Tản Viên Sơn Thánh là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo Truyện Núi Tản Viên:
“Lạc Long Quân đem năm mươi trai về biển , năm mươi trai theo mẹ về núi, phân trị thiên hạ, hiệu là Hùng Vương; Tản Viên Sơn Đại Vương là một người con trong số năm mươi con chia về đó. Vương tử hải quốc do cửa biển Thần Phù mà về, tìm một nơi cao ráo, thanh u, dân tục thuần hậu mà ở […] Vương trông thấy núi Tản Viên tú lệ, ba hòn sắp hàng đứng, nghiễm nhiên như vẽ; dân ở dưới núi, tục chuộng tố phác. Vương khi ấy mở một đường thẳng như dây đàn từ làng Phiên Tân đến bên núi Tản Viên, đi đến Uyên Động, lại đi đến Nham Tuyền […] phàm kinh qua đường thôn đều xây đền vũ để làm nơi nghỉ ngơi.”(1)
Chỗ chua thần Tản Viên năm Thái Ninh thứ hai đời Lý Nhân Tông chép:
“Thần Tản Viên là một người con trong 50 người con của Lạc Long Quân”
Viện dẫn không có đầu mối, bàn ở dưới chỗ chú điều bách nam, chua thêm:
“Một ngày Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: Ta là giống rồng, mình là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau khó cùng ở được, bèn từ biệt nhau chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về miền nam (miền nam cũng có sách chép là về ở biển), phong con trưởng làm Hùng Vương, cha con truyền ngôi cho nhau 18 đời” để làm căn bản cho truyện việc chua thần Tản Viên, năm Thái Ninh thứ 2.(2)
Tản Viên Sơn Thánh là con người thật
Theo đó, “đời Hùng Vương thứ 18 ở động Lăng Sương, xứ Sơn Tây có một người tên là Nguyễn Tuấn (sau đổi tên là Nguyễn Huệ, Nguyễn Chiêu). Sau khi cha mất, Tuấn cùng mẹ lên núi Tản Viên ở, gặp được Sơn Thần cho cây gậy thần và được Thái tử ở Long Cung cho cuốn sách ước, nhờ vậy mà Tuấn cứu giúp được nhiều người, được nhân dân tôn là Sơn Tinh. Sơn Tinh về sau lấy Mị Nương, bị Thuỷ Tinh thù oán, dâng nước lên gây ra lụt lội. Sơn Tinh từng giúp Trưng Vương đánh bại Tô Định…”(3)
Tản Viên Sơn Thánh là ba anh em thần núi
Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Tản Viên Sơn Thánh là tín ngưỡng thần núi (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên, các học giả khẳng định rằng, nói tới Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi (còn được gọi là Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng đẳng thần).
Theo đó, Tản Viên Sơn gồm: Sơn Tinh và hai người em thúc bá là Cao Sơn (Sùng công) và Quý Minh (Hiển công) chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi, tức núi Ba Vì ngày này – núi tổ của nước ta, có ba ngọn cao chót vót (Nguyễn Trãi – Dư địa chí).
Minh chứng cho giải thích này là hiện nay, trên địa bàn hai xã Minh Quang và Ba Vì (thuộc huyện Ba Vì) có khu đền thờ Tản Viên Sơn Thánh, gồm 3 đền Thượng: đền Trung và đền Hạ – nơi thờ phụng Tam vị Tản Viên Sơn Thánh huyền thoại.
Vua Cha Nhạc Phủ có thuộc hệ thống thần linh Tứ Phủ?
Hiện nay trong hệ thống thờ tứ phủ có 4 vị mẫu cai quản các Thiên, Địa, Nhạc, Thoải. Bên cạnh các Mẫu, theo quan điểm của tín ngưỡng Tam Phủ có 3 vị Vua cha được thờ làm thần chủ các phủ là
- Ngọc Hoàng Thượng Đế (Thiên Phủ)
- Bát Hải Động Đình (Thoải Phủ)
- Bắc Âm Phong Đô Nguyên Thiên Đại Đế (Địa Phủ)
Như vậy còn khuyết vị trí vua cha Nhạc phủ. Sau này khi tín ngưỡng Tam Tứ Phủ phát triển thêm một bước mới đã bổ sung thêm Nhạc Phủ vào cấu trúc thờ tự, do vậy mới có thuật ngữ Tứ Phủ Vạn Linh.
Vị trí Vua Cha Nhạc Phủ là có, thuộc hàng vị ngôi cao với màu xanh đại diện, được thỉnh đến trong văn công đồng:
“Tận hư không giới thánh hiền
Dục giới sắc giới chư thiên đều mời
Vua Đế Thích quản cai Thiên chủ
Vua Ngọc Hoàng Thiên phủ chi tôn
Dương phủ Ngũ Nhạc thần vương
Địa phủ thập điện minh vương các tòa
Dưới Thoải phủ giang hà ngoại hải
Chốn Động Đình Bát Hải Long Vương,…”
Là Thánh vẫn có thể ở ngôi vị Vua Cha
Một số quan điểm cho rằng Đức Thánh Tản không thể ở ngôi vị Vua Cha được, thì ngài là Thánh, đã là Thánh thì không thể là Vua Cha. Tuy nhiên quan điểm này không đúng.
Để thấy rõ được điều này chúng ta hãy quay lại khái niệm cơ bản. Dựa trên từ điển Hán – Việt cũng như từ điển tiếng Việt thì từ Thánh dùng để chỉ những nhân vật đức hạnh và có sức mạnh siêu nhiên. Như vậy thì Thánh là một khái niệm rộng lớn bao quát, bao gồm cả trong đó hình ảnh của Vua Cha chứ không phải là Thánh thì không thể là Vua Cha.
Một số sắc phong của Đức Thánh Tản
Cùng với Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), Chử Đồng Tử (Chử Đạo Tổ), và Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Tản Viên – Sơn Tinh là vị Thánh đứng đầu trong bốn vị “Tứ bất tử” của dân tộc ta từ ngàn xưa. Với tư tưởng “Thời chiến dụng võ, thời bình dụng văn”, biết liên minh các bộ tộc lại với nhau để đoàn kết giữ nước và dựng nước, Thánh Tản Viên – Sơn Tinh đã có công xây dựng lên một quốc gia Âu Lạc bền vững để ra đời nền văn hóa trống đồng nổi tiếng sau này.
Vua Trưng Vương (Trưng Trắc) sắc phong Ngài là: “Tản viên sơn quốc chúa đại vương Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần”.
Vua Trần Nhân Tông(1279 – 1293) sắc phong ngài là: “Hữu thành hưng quốc hiển ứng vương”
Vua Tự Đức (1883) phong Ngài là Thượng Đẳng Tối Linh Thần.
Ngoài ra ở đền Và còn lưu 18 đạo “sắc phong” của các đời vua cho Đức Thánh Tản, trong đó có 17 bản chính có dấu ấn
Thánh Tản Viên – Sơn Tinh không chỉ sống trong lòng dân, mà cả văn học thành văn từ nhiều thế kỷ trước đã ghi chép nhiều chuyện về Ngài như: “Việt điện u linh”, “Lĩnh Nam chích quái”, “Thánh Tông di ký toàn thư”, “Việt sử thông giám cương mục” v.v… Những công tích của Ngài được nhân dân thần thánh hóa thành các lễ hội, tích trò để lưu truyền cho muôn đời con cháu mai sau. Ngài được phong là “Tản Viên Sơn quốc chúa kiêm Thượng đẳng thần” và được suy tôn là:
“Tản Viên sơn thần
Đệ nhất phúc đẳng thần
Đệ nhất bách thần
Thượng đẳng tối linh thần
Nam thiên thánh tổ.”
Sơn Tinh là thần, hơn thế nữa lại là thần “bất tử”. Ngài là vị thần khai sáng văn hóa vị anh hùng chống lũ lụt, anh hùng chống ngoại xâm và là vị thần liên minh các bộ tộc Việt – Mường, là hồn thiêng sông núi, mãi mãi đi vào tâm thức của người dân đất Việt.
“Ba Vì cao ngất tầng mây
Sơn Tinh chuyện cũ đến nay còn truyền.”
Thờ phụng
Thời gian khánh tiệc Vua Cha Nhạc Phủ
Ngày 06/11 âm lịch: Tiệc Đản Nhật Vua Cha Nhạc Phủ Tản Viên Sơn Thánh
Vua Cha Nhạc Phủ (vùng rừng núi) – Danh hiệu: Đức Tản Viên Sơn Thánh – Màu sắc đại diện: màu xanh.
Đền thờ Tản Viên (Ba Vì)
Đền nằm trên địa bàn hai xã Minh Quang và Ba Vì, thuộc huyện Ba Vì, thờ Đức Thánh Tân Sơn Tinh – vị thần đứng đầu trong bốn vị thần “bất tử” của Việt Nam (Thánh Tản Viên, Thánh mẫu Liễu Hạnh, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử) và hai người em thúc bá là Cao Sơn (Sùng công) và Quý Minh (Hiển công). Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành nước Nam Việt, núi đứng cao thắng như hình một cái lọng nên đặt tên như vậy.
Đền thờ Tản Viên (Ba Vì) được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 21/2/2008, Khu di tích lịch sử Đền thờ Tản Viên Sơn Thánh gồm ba ngôi đền: đền Thượng, đền Trung, và đền Hạ.
Khu di tích đền Và (Sơn Tây)
Đền Và thuộc thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, là một trong bốn cung thờ Thần Núi Ba Vì – Tản Viên Sơn Thánh, Đệ Nhất Phúc Thần trong Tứ bất tử của tâm thức dân gian Việt.
Đền tọa lạc trên một gò đất rộng, thấp hình con rùa đang duỗi bốn chân ngóng đầu xuống đầm Vân Mộng, hướng về phía mặt trời mọc. Theo truyền thuyết, đền Và là Hành cung của Tản Viên Sơn Thánh mỗi khi ngài đi tuần thủ, du ngoạn.
Đền được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1964.
Đền Tranh (Vĩnh Phúc)
Đền Tranh còn có tên gọi là đền Bắc Cung thượng ở xã Trung Nguyên, huyện Yên Lạc. Đền nằm trong tứ cung thờ Đức Thánh Tản Viên.
Đền Tranh được xây dựng khoảng đầu thế kỷ IV, thờ đức Thánh Tản Viên Sơn từ thời Hùng Vương dựng nước.
Hằng năm, vào các ngày Rằm tháng Giêng, ngày 6-2 và 6-8 (âm lịch), đền Tranh lại tưng bừng tổ chức lễ hội với hình thức diễn xướng, khai sắc nhắc lại công lao đức Thánh Tản Viên; tiến hành nghi lễ nông nghiệp như gieo hạt, làm đất, chăm bón… cầu mùa màng bội thu.
Trong lễ hội diễn ra nhiều trò chơi đu tiên, bơi thuyền, bắt vịt, lăn vòng, leo cây, vật, cờ tướng, thổi hiệu cốc quân… thu hút đông đảo nhân dân tham gia, phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa vui tươi, lành mạnh và giáo dục truyền thống đoàn kết cho thế hệ trẻ.
Đền Thỉnh (Vĩnh Phúc)
Đền thờ đức thánh Tản Viên nên gọi là đền “Thánh”, gọi chệch đi là đền “Thỉnh” vậy. Đền Thánh còn gọi là đền “Bắc Cung” vì theo truyền thuyết dân gian, với công lao to lớn của Tản viên Sơn Thánh trong quá trình bảo vệ và ổn định đất nước Văn Lang thời vua Hùng Duệ Vương.
Hàng năm lễ hội đền Thỉnh được diễn ra từ ngày mùng 6 đến ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch. Ngoài phần lễ còn có nhiều trò chơi dân gian như: đấu vật, thi cờ tướng, chọi gà, kéo co, đánh đu.
Đền Lăng Sương (Phú Thọ) – nơi sinh Đức Thánh Tản
Trong cuốn Ngọc phả ghi rõ, ngôi đền có tên là Lăng Sương, ở xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ chính là nơi đầu tiên thờ thánh Tản Viên. Đền Lăng Sương được xây dựng từ năm 1011, đời nhà Lý. Theo tài liệu còn được lưu giữ tại đây thì, đền được dựng lên trên nền đất cũ nơi thánh Sơn Tinh sinh ra và lớn lên.