Tiểu sử và quá trình tu đạo
Tổ sư Liễu Quán (1667-1742), người sáng lập thiền phái Lâm Tế Liễu Quán vào thế kỷ XVIII. Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán người làng Bạc Má, huyện Đồng Xuân, phủ Phú Yên (nay thuộc thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên). Ngài sinh vào giờ Thìn ngày 18-11-1667, mất vào giờ Mùi ngày 22-11-1742.
Năm 1678, ngài Thiệt Diệu được cha đưa đi chùa Hội Tôn ở Phú Yên lễ Phật, ở đây ngài gặp Thiền sư Tế Viên (người Trung Quốc) và xin ở lại chùa để học đạo. Vào năm 1680, sau khi Hòa thượng Tế Viên viên tịch, Ngài Liễu Quán một mình tìm ra Thuận Hóa đỉnh lễ thụ giáo với Hòa thượng Giác Phong tại chùa Thiên Thọ tức chùa Báo Quốc hiện nay. Trải qua mười một năm tu học mới được xuống tóc và chính thức xuất gia vào năm 1691. Thời gian này, Ngài được tin thân phụ ở quê nhà đang ốm bệnh nên xin phép Giác Phong Lão tổ về quê Phú Yên để phụng dưỡng cha.
Bốn năm sau khi thân phụ qua đời (1695), Ngài Liễu Quán trở lại Thuận Hóa cầu thọ Sa – di giới tại Giới đàn chùa Thiền Lâm do Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu tổ chức, Hòa thượng Thạch Liêm Đại Sán làm Đàn đầu truyền giới.
Năm Đinh Sửu (1697), Ngài thọ Cụ túc giới với Từ Lâm Lão tổ. Từ năm 1699, Ngài Liễu Quán đi tham kiến nhiều nơi trong chốn thiền lâm Thuận Hóa để cầu học đạo thiền. Khi nghe nhiều người nói đại lão hòa thượng Tử Dung là người giỏi hướng dẫn tham thiền niệm Phật nên Ngài đã tìm đến chùa Ấn Tôn (nay là chùa Từ Đàm) ở núi Long Sơn xin học đạo với Hòa thượng Tử Dung (1702) và được Tổ trao công án. Sau đó Ngài thường lưu trú ở am Viên Thông và lập thảo am Thiền Tôn để tham cứu công án (1708).
Năm 1712, Ngài trình “Dục Phật” lên tổ Tử Dung và được Tổ ấn chứng tâm pháp. Sau đó ngài về lại Phú Yên ở chùa Hội Tôn và khai sơn chùa Bảo Tịnh vào khoảng năm (1712-1715). Sau năm 1722, Ngài khai sơn thảo am Viên Giác và liên tiếp mở Đại giới đàn tại Thuận Hóa để truyền trì mạng mạch Phật pháp vào các năm Quý Sửu (1733), Giáp Dần (1734), Ất Mão (1735), Canh Thân (1740).
Cuối mùa thu năm 1742, Ngài thụ bệnh và viên tịch tại Tổ đình Viên Thông thọ thế 76 tuổi. Tháng 2 năm Quý Hợi (1743), môn đồ từ chúng cử hành lễ thỉnh kim quan Tổ sư nhập bảo tháp Vô Lượng Quang dưới chân núi Thiên Thai.
Những đóng góp của thiền phái Liễu Quán đối với Phật Giáo Việt Nam
Thiền phái Liễu Quán do Thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán sáng lập và phát triển ở đầu thể kỷ XVIII là sự dung hòa giữa Lâm Tế với Tào Động, với các yếu tố thiên nhiên, yêu nước, vì dân tộc. Ngài đã Việt hóa Thiền phái Lâm tế và làm cho nó trở thành thiền phái của đại đa số Phật tử Đàng Trong. Ngài khai sáng và mở ra rất nhiều chùa cũng như đạo tràng khắp các tỉnh ở Đàng Trong như chùa Thuyền Tôn, chùa Viên Thông ở Thuận Hóa; chùa Hội Tôn, chùa Cổ Lâm và chùa Bảo Tịnh ở Phú Yên. Với 43 năm truyền y bát, 34 năm thuyết pháp, đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài có đến ngàn vạn, cao đồ có 49 người, trong đó phải kể đến 4 đệ tử lớn: Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu. Bốn vị này đã tạo lập bốn trung tâm hoằng dương chính pháp lớn và hàng chục tổ đình ở khắp Đàng Trong.
Kể từ sau khi Tổ Liễu Quán đắc pháp với Tổ Tử Dung, vai trò hoằng truyền chánh pháp ở xứ Đàng Trong đã chuyển từ các thiền sư người Trung Quốc sang cho các thiền sư người Việt Nam với nôi dung tư tưởng mang tính chất và linh hồn của người Việt.
Tổ sư Liễu Quán đã đưa Phật giáo từ chốn hoàng cung đến gần với đông đảo quần chúng nhân dân, tiếp nối tư tưởng “Dĩ nông vi thiền” của các Tổ sư đời trước, trung thành với khẩu hiệu “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thưc” nghĩa là một ngày không làm, một ngày không ăn của tổ sư Bách Trượng. Chính điều này làm cho dòng thiền Liễu Quán có một vị trí vững chắc trong lòng dân chúng. Tầng lớp tăng lữ hòa nhập với cuộc sống nông dân, mọi giai tầng trong xã hội đều bình đẳng trước sự thể nghiệm Phật pháp trong cuộc sống thường nhật.
Pháp kệ truyền thừa của Thiền phái Liễu Quán
Sau khi đắc đạo, Tổ Liễu Quán tự mình biệt xuất pháp kệ để khai sinh một dòng thiền mới Điều đó cho thấy Ngài có tầm nhìn đầy tuệ giác về sức sống và nhu cầu của xã hội đương thời. Pháp hệ truyền thừa của Tổ Liễu Quán có tính định hướng đường lối tu tập và hành đạo, qua đó thể hiện ý chí của Ngài hướng tới sự vận hành công đức giải thoát và giác ngộ trong đời sống của xã hội nhân sinh.
Nguyên văn Kệ truyền thừa của Ngài Liễu Quán như sau:
實際大導
性 海 清 澄
心 源 廣 潤
德 本 慈 風
戒 定 福 慧
體 用 圓 通
永 超 智 果
密 契 成 功
傳 持 妙 里
演 暢 正 宗
行 解 相 應
達 悟 真 空
Phiên âm:
Thiệt tế đại đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong
Giới Định Phước Huệ
Thể Dụng Viên Thông
Vĩnh Siêu Trí Quả
Mật Khế Thành Công
Truyền Trì Diệu Lý
Diễn Sướng Chánh Tông
Hạnh Giải Tương Ưng
Đạt Ngộ Chơn Không
Dịch nghĩa:
Đường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng
Giới định phước huệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công
Truyền giữ lý mầu
Tuyên dương chính tông
Hành giải song song
Đạt ngộ chân không
Tham khảo
Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Thiền phái Liễu Quán, lịch sử hình thành và phát triển, Huế, 31-12-2023.