Thân thế
Hòa thượng An Lạc, hay còn được biết đến với tự Minh Đàng và thế danh Lê Ngọc Xuyên, là một danh sư lớn trong lịch sử Phật giáo. Sinh năm Ất Hợi (1874) tại tổng Thanh Phong, làng Mỹ Phong, nơi mà chính là địa phương của chùa Vĩnh Tràng, thành phố Mỹ Tho.
Tính từ thời thơ ấu, Hòa thượng An Lạc đã trải qua một cuộc sống bình dị và kính Đạo. Gia đình Ngài là một gia đình truyền thống sùng kính đạo Phật, với cha là đệ tử của Hòa thượng Tư Trung và mẹ là đệ tử của Hòa thượng Chánh Hậu. Việc Ngài thường xuyên theo cha mẹ lên chùa thắp nhang và lễ Phật từ thuở nhỏ đã đặt nền móng cho sự tận hiến của Ngài trong con đường tu đạo.
Cơ duyên tu tập
Năm 15 tuổi, Hòa thượng An Lạc được cha mẹ đưa đến quy y thế độ với Yết ma Chánh Hậu, và Bổn sư ban cho Ngài pháp danh là Tục Thông, pháp hiệu An Lạc. Từ đây, Ngài xuất gia, có cuộc sống tu hành tại chùa Sắc Tứ Linh Thứu, chuyên tâm tập trung tu hành và nghiên cứu Đạo pháp.
Qua các giai đoạn tu học, Hòa thượng Chánh Hậu trở về trụ trì chùa Vĩnh Tràng và chú tiểu trẻ Tục Thông theo về đây để tiếp tục con đường tu Đạo. Mặc dù chuyển về chùa gần nhà, nhưng Hòa thượng An Lạc vẫn giữ vững lòng thành tu hành, không bao giờ xao nhãng công phu tu Đạo của mình.
Rằm tháng 3 năm Canh Tý (1900), sau những nỗ lực học hành và tu tập đầy ý nghĩa, Hòa thượng Bổn sư ban cho Ngài pháp danh mới là Kiểu Thuận, pháp hiệu Tâm Liễu. Nhận được sự pháp danh mới, Hòa thượng An Lạc được xướng danh là pháp tử, là một minh chứng rõ ràng cho sự chánh niệm và tận hiến của Ngài trong con đường tu hành, và đồng thời được phú cho bài kệ:
Kiểu pháp phương tri sắc tức không
Thuận thừa Phật nguyệt đạt chân tông
Tâm thiền khổ hải tòng siêu xuất
Liễu ngộ nguyên lai hữu hà công?
Tạm dịch:
Kiểu pháp biết nên sắc tức không
Thuận về Phật nguyệt đạt chân tông
Tâm thiền biển khổ cùng siêu xuất
Liễu ngộ nguyên lai hỏi có công?
Năm Nhâm Dần (1902), Hòa thượng An Lạc trải qua nghi lễ thọ giới Cụ Túc tại giới đàn chùa Kim Tiên, đặt tại xã An Hữu, huyện Cái Bè. Sau sự kiện này, Ngài chọn an cư tại chùa Hội Phước ở Sa Đéc từ năm 1904.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm 1905, Ngài chuyển đến chùa Sắc Tứ Trường Thọ tại Gia Định, nơi Ngài nắm giữ vai trò Chánh Tri Sự. Sau mùa an cư, Ngài được bầu làm Đệ tam Tôn chứng Đại giới đàn.
Mùa an cư năm Đinh Mùi (1906) tại chùa Long Quang ở Vĩnh Long, Hòa thượng An Lạc được bầu làm Thư ký.
Năm Mậu Thân (1907), sau mùa an cư tại chùa Bửu Long ở Sa Đéc, Ngài tiếp tục được bổ nhiệm làm Yết ma tại Đại giới đàn ở đây.
Đến tháng 7 năm Quý Hợi (1923), sau khi Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Hòa thượng An Lạc trở thành trưởng tử được chọn làm trụ trì chùa Vĩnh Tràng. Để tri ân công ơn của Bổn sư, Ngài cho xây dựng một cây tháp đá tại Đà Nẵng để tôn vinh Hòa thượng Chánh Hậu.
Năm 1925, Hòa thượng An Lạc tiếp tục tạo dựng một cây bảo đồng hai tầng riêng để thờ Tỳ kheo ni Diệu Tín.
Sau đó, vào năm 1930, Ngài tổ chức trùng tu chùa Vĩnh Tràng với quy mô lớn, kết hợp hài hòa giữa kiến trúc xứ chùa Tháp và kiến trúc chùa cổ truyền Nam bộ. Sự sáng tạo của Ngài không chỉ thể hiện qua những kiểu dáng La Mã thời Phục Hưng mà còn mang đậm nét Ấn Độ – Á Đông. Hiện nay, chùa Vĩnh Tràng không chỉ là nơi linh thiêng mà còn trở thành một trung tâm du lịch nổi tiếng tại thành phố Mỹ Tho. Đó là một minh chứng cho sự đóng góp không ngừng của Hòa thượng An Lạc trong việc phát triển và bảo tồn di sản Phật giáo.
Trong công cuộc chấn hưng Phật giáo tại Nam kỳ trong những năm đầu thập niên 1930, một nhân vật quan trọng và có công lớn là Hòa thượng Thích Khánh Hòa đã nổi bật, điểm sáng. Ngài không chỉ là người tiên phong mà còn có vai trò quan trọng trong việc hợp tác với nhiều Hòa thượng khác ở các Tổ đình, trong đó có Hòa thượng Thích An Lạc, đang đặt trụ sở tại Tổ đình Vĩnh Tràng, thuộc thành phố Mỹ Tho.
Năm 1931, Hòa thượng Thích Khánh Hòa cùng với các đồng môn quyết định thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, với trụ sở tại chùa Linh Sơn, gần chợ Cầu Muối Sài Gòn. Hội đã chuẩn bị xong sáu căn nhà, đầy đủ trang thiết bị để mở lớp học Tăng, nhưng đối diện với nhiều khó khăn, lớp học không thể khai giảng như dự kiến được.
Nôn nóng với mong muốn đào tạo Tăng tài và chuẩn bị cho đội ngũ Tăng Ni tham gia vào phong trào chấn hưng Phật giáo, Hòa thượng Thích Khánh Hòa quyết định rời chùa Linh Sơn và chuyển đến Trà Vinh. Tại đây, Ngài và các Pháp hữu thành lập Phật học đường lưu động, mang tên Liên Đoàn Phật Học Xã. Các lớp học được tổ chức tại chùa Long Hòa, chùa Thiên Phước (ở Trà Ôn), và chùa Viên Giác (ở Bến Tre).
Tuy nhiên, sau một thời gian, trường phải giải tán do thiếu nguồn tài chánh. Từ những bài học đắt giá này, Hòa thượng Thích Khánh Hòa và các pháp hữu đã nảy ra ý tưởng thành lập một hội Phật học với đông đảo hội viên thường xuyên đóng góp tài chánh, nhằm duy trì một Phật học đường có sự bền vững. Kết quả là Hội Lưỡng Xuyên Phật Học chính thức ra đời ngày 13-8-1934, đặt trụ sở tại chùa Long Phước ở Trà Vinh.
Thời kỳ viên tịch
Hòa thượng An Lạc được công cử làm Hội trưởng khóa đầu và Hòa thượng Thích Từ Phong được bổ nhiệm làm Chứng minh Đạo sư.
Ngày 22 tháng 6 năm Ất Mão (1939), Hòa thượng An Lạc viên tịch tại chùa Vĩnh Tràng, hưởng thọ 65 tuổi và để lại một di sản lớn trong lịch sử Phật giáo Nam kỳ.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995