Thân thế
Hòa thượng Thích Giác Phong, người sinh ra trong một gia đình khoa bảng, quán làng Bích Khê, tổng Bích La, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Tuổi thơ, Ngài đã theo học chữ Nho và chữ Pháp, đậu Tú tài Hán học ở trường thi Hương Thừa Thiên, khoa Mậu Ngọ (1918) niên hiệu Khải Định thứ 3, khoa thi cuối cùng của Nam triều. Anh trai của Ngài cũng đậu Hoàng giáp trong cùng kỳ.
Với tài năng viết liễn đối và nét chữ hoành phi đẹp, Ngài thu hút sự khâm phục của những người Hoa kiều có học thức thời kỳ đó. Nhờ vào vị thế là con nhà khoa bảng và sự ủng hộ của triều đình, Ngài được triệu vào triều làm thư ký riêng trong văn phòng của vua Khải Định.
Cơ duyên tu hành
Tuy nhiên, cuộc sống làm quan đã giúp Ngài nhận ra những khía cạnh đau thương và khổ đau của cuộc sống. Khi ở trong chùa Báo Quốc tại Huế, Ngài đã thấu hiểu mùi thiền và qui y với Hòa thượng Tâm Khoan, đánh dấu bước đầu tiên trên con đường tìm kiếm giải thoát, Ngài càng nhận thấy cuộc đời là trường danh lợi, mạnh hiếp yếu, thiếu tình thương, đầy khổ não. Ngài tự nghĩ: phải chăng chỉ có ánh đạo Từ Bi mới cứu vớt được nhân loại thoát ra ngoài bể khổ, đem lại hạnh phúc cho chúng sinh.
Thêm vào đó, thân phụ Ngài là một nhà Nho thâm đạt Phật lý, chánh tín tu hành, sống đời từ bi bác ái. Khi sắp sửa từ trần, cụ ngồi xếp bằng niệm Phật, rồi thoát thần một cách tự nhiên. Bấy giờ được chứng kiến cảnh vãng sanh Tây phương đầy nhiệm mầu của thân phụ, tâm ý Ngài càng hướng mạnh về con đường giác ngộ của đức Phật. Ngài bèn trao ấn từ quan, xuất gia hành đạo.
Sau những chuyến vân du tìm hiểu văn hóa và Phật giáo ở nước ngoài, Ngài trở về và khai sơn chùa Giác Phong ở Quảng Trị. Ngài vân du để tham khảo giáo lý, văn hóa ngoại bang, quan sát tình hình Phật giáo tại những nước có phong trào phục hưng cao.
Những đóng góp cho Phật giáo
Sau đó, Ngài trở về Huế, đem nhận xét, hiểu biết của mình áp dụng trong bước đường tu hành và đóng góp cho công cuộc hoằng dương chánh pháp trong nước thời điểm này, Ngài được biết đến với biệt hiệu là Giác Phong. Đến năm Bảo Đại thứ 10 (1935), Ngài thọ đại giới tại trường Kỳ chùa Sắc Tứ Tịnh Quang ở Quảng Trị và nhận pháp từ Hòa thượng Hải Đức – Thích Phước Huệ, nhận pháp hiệu Bích Không.
Nhờ sự uyên thâm trong Nho học, Hòa thượng Thích Giác Phong đã tiến sâu vào việc nghiên cứu huyền nghĩa của tam tạng kinh điển. Sau khi học hỏi từ các vị cao Tăng ở Huế, Ngài tiếp tục tìm hiểu với Hòa thượng Thập Tháp – Quốc sư Phước Huệ tại Bình Định. Trong một buổi học kinh Lăng Già, chỉ một câu của Hòa thượng, “Bán cú phi bất đa,” đã mở ra sự tỏ ngộ cho Ngài.
Từ đây, Hòa thượng Thích Giác Phong bắt đầu hành trình của mình trong sự nghiệp lợi tha và hoằng dương chánh pháp. Trong giai đoạn phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Trung (1935 – 1937), Ngài đóng góp tích cực cho các tỉnh từ Đà Nẵng đến Nghệ Tĩnh.
Ngài hợp tác với các Tôn đức ở Đà Nẵng để thành lập hội “Đà Thành Phật Học” và xuất bản tạp chí Tam Bảo. Ngài còn khai mở Phật học đường tại chùa Phổ Đà, giữ vai trò Giám đốc, và chùa này phục vụ cả hai cấp học Tiểu học và Trung học. Chủ trương của hội Đà Thành Phật Học nhấn mạnh sự thống nhất của các đoàn thể Phật giáo trong xứ, mong muốn tạo ra một hội “Phật Giáo Liên Hiệp” với tôn chỉ là:
1) Phò khởi Tăng giới, nguyện cùng chư sơn Nam – Bắc liên đoàn để bảo tồn Tăng Bảo.
2) Nguyện cùng chư sơn chấn chỉnh tôn phong, chung một điều lệ thi hành, cần nhất là phải giữ cho được hoàn toàn giới hạnh.
Trong thời gian ở Đà Nẵng, Ngài nhận được sắc phong làm trụ trì chùa Sắc Tứ Phổ Thiên từ bộ Lễ Nam triều. Tiếp theo, Ngài di chuyển đến Nha Trang để mở trường hoằng pháp cho Tăng chúng và tín đồ tu học tại chùa Sắc Tứ Hải Đức. Tăng Ni ở các chùa Hải Ấn (Sài Gòn), Bình Quang (Phan Thiết) và chùa Thập Tháp (Bình Định), các chùa ở Huế, Đà Nẵng v.v… đều qui tập về đây tu học.
Trong giai đoạn ở Khánh Hòa, Ngài đảm nhiệm vai trò cố vấn tối cao cho Tỉnh hội Phật học và tham gia tích cực trong việc xây dựng các chi hội, khuôn hội. Ngài còn tham gia vào các hoạt động Phật sự tại Đà Lạt và các Tỉnh hội ở miền cực Nam Trung Kỳ. Pháp tử của Ngài được thấm nhuần ở khắp mọi nơi, và Ngài góp phần vào việc chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Trung Kỳ và Nghệ An.
Khi Ngài ở chùa Linh Vân thường gọi chùa Diệc ở thành phố Vinh, Ngài đã hóa duyên cho một cư sĩ tên là Bạch Hưng Nghiêm. Ông này đã phát tâm ấn tống rất nhiều kinh điển Đại thừa. Ngài cũng vân du hóa đạo ra Thanh Hóa và một số nơi ở miền Bắc.
Năm 1942, Hòa thượng Thích Giác Phong trở lại Nha Trang, đảm nhận vai trò Tuyên Luật sư tại trường Kỳ chùa Kim Long ở huyện Ninh Hòa. Hai năm sau, Ngài chuyển đến Phan Thiết, làm Tuyên Luật sư tại giới đàn chùa Bình Quang, nơi Ngài hướng dẫn Ni chúng và thực hiện đại trùng tu cho Tổ đình Phật Quang.
Được giao trọng trách quản lý chùa, Hòa thượng Thích Giác Phong nhận thức rằng nằm trong khuôn viên chật hẹp của thành phố, chùa không có khả năng phát triển. Chính vì vậy, Ngài cùng với sơn môn và bổn đạo đã quyết định di dời chùa lên núi Trại Thủy, nơi phải chặt cây và phá núi để tạo mặt bằng xây dựng mới. Thời điểm này đúng là thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế đang suy sụp và dân chúng đang phải chịu áp bức từ cả Pháp và Nhật.
Quá trình trùng tu và di dời chùa gặp phải không ít khó khăn. Tuy nhiên, với tinh thần quyết tâm cao, Hòa thượng đã vượt qua mọi thử thách, tạo nên một đại tòng lâm uy nghi lúc nào cũng sáng tạo (Trường Cao Đẳng Phật Học Nha Trang) để phục vụ cho việc tu tập của chư Tăng và sự chiêm bái của Phật tử.
Không chỉ xây dựng một ngôi chùa trang nghiêm, Hòa thượng còn đi ra làng Hà Già, thuộc huyện Ninh Hòa, cách Nha Trang 50 cây số về hướng Bắc. Ngài đã xin đất để lập nông thiền trên diện tích trên 50 mẫu, nhằm cung cấp lương thực cho chư Tăng tu tập tại đại tòng lâm. Khi chùa mới hoàn thành, các vật dụng thiết yếu thiếu hụt. Hòa thượng đã phải trở về quê Quảng Trị, bán hết phần gia tài đất sản ở quê nhà để có tiền mua sắm và đưa vào chùa. Hành trình đi này diễn ra trong thời kỳ chiến tranh, khi xe lửa bị Nhật trưng dụng, việc di chuyển trở nên vô cùng khó khăn và nguy hiểm, thường xuyên bị máy bay Đồng Minh ném bom.
Trong chuyến đi đó, Hòa thượng mang theo nhiều vật dụng quý giá từ chùa, bao gồm đồ sành, sứ, và đồng thuộc loại cổ xưa. Tuy nhiên, khi tàu đến ga Tam Quan ở Bình Định, mọi thứ đã bị mất hết do bị bom đánh. Hòa thượng còn đưa theo một lượng lớn bà con và dân làng để họ cùng tham gia vào công việc xây dựng và phát triển nông thiền.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, khi quân Pháp đổ bộ Nha Trang, Ngài và đệ tử phải rời khỏi chùa theo dân chúng tản cư, và sau đó, họ đến Huế. Năm 1946, Hòa thượng Thích Giác Phong trở thành Giám đốc Phật học viện Báo Quốc và cùng chư Tôn đức chủ trương xuất bản tạp chí Giải Thoát, làm cơ quan ngôn luận cho Phật giáo đương thời.
Thời kỳ viên tịch
Năm 1947, mặt trận Huế bị phá vỡ, và quân Pháp lan rộng ra. Hòa thượng Thích Giác Phong buộc phải tản cư đến Quảng Trị, sau đó tiếp tục hành trình đến Nghệ An và ẩn náu tại chùa Diệc, tiếp tục công việc hoằng pháp. Tuy nhiên, tình hình chính trị và chiến tranh thay đổi nhanh chóng. Với khẩu hiệu “Tất cả cho kháng chiến,” mọi hoạt động đều phải tạm ngưng, bao gồm cả các hoạt động hành đạo. Trong giai đoạn cuối đời, Hòa thượng Thích Giác Phong sống yên bình tại thành phố Vinh và mắc một căn bệnh nặng. Ngày 15 tháng 9 năm Giáp Ngọ (1954), Ngài trở về cõi Phật, hưởng thọ 60 tuổi đời và 21 tuổi đạo.
Đóng góp của Hòa thượng Thích Giác Phong trong công cuộc chấn hưng Phật giáo trải dài từ Thanh Nghệ đến Phan Thiết là rất lớn, và dấu tích của Đạo pháp của Ngài tỏa sáng khắp nơi. Dù ẩn mình hay hiện diện trong cuộc sống hàng ngày, Ngài Bích Không vẫn là nguồn sáng mãi mãi, thế hệ sau kế thừa tinh thần và tạo ra những bông hoa Ưu Đàm cho thế hệ tương lai.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995