Thân thế
Hòa thượng Bích Liên, hay thế danh Nguyễn Trọng Khải, pháp hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh vào ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, ngày nay thuộc ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Ngài lớn lên trong một gia đình truyền thống nho học, từ nhỏ đã theo đuổi nghiệp bút nghiên. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự và mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị. Ở tuổi 20, Ngài kết hôn với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Ở độ tuổi 31, Ngài đỗ Tú Tài và sau đó ba năm nữa, Ngài lại đỗ Tú Tài lần thứ hai. Từ lúc này, Ngài đã nhận ra sứ mệnh của mình trong giáo dục và quyết định từ giã cuộc sống học thuật, thay vào đó là việc mở trường dạy học và tận hưởng cuộc sống mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt chốn thiền gia.
Cơ duyên tu hành
Tuy nhiên, niềm hạnh phúc của Ngài bị thử thách khi bà Lê Thị Hồng Kiều từ trần đột ngột khi mới 40 tuổi, để lại cho Ngài một trai hai gái. Sự thiếu vắng này đã làm cho Ngài thấu hiểu sâu sắc về ý nghĩa “Sinh tử vô thường”, đồng thời làm nảy mầm ý định xuất gia trong tâm hồn Ngài.
Khi Ngài 41 tuổi (năm Đinh Tỵ – 1917), Ngài nhận được một tượng Phật bằng sứ mà ngư phủ đem tặng, và cả hai phần của tượng này đều hoàn chỉnh khi lắp ghép với nhau. Thêm vào đó, vào năm 1918, một nhà sư khác còn tặng Ngài hai quyển “Long Thơ Tịnh Độ” – một bộ sách thuyết minh về niệm Phật để cầu sanh về cõi Tây phương Cực Lạc. Tất cả những sự trùng hợp này đã thuyết phục Ngài rằng cơ duyên xuất gia đã đến.
Do đó, năm 1919, 43 tuổi, Ngài đến chùa Thạch Sơn ở Quảng Ngãi, quy y thọ giới với Hòa thượng Hoằng Thạc, và được ban pháp danh Chơn Giám, tự Đạo Quang, pháp hiệu Trí Hải.
Nhờ tinh thông Hán học và gặp thiện duyên lớn, Ngài đã nhanh chóng trở thành một Tăng sĩ uyên thâm, đạo đức cao quý sau vài năm tham học và đắc pháp với Hòa thượng Hoằng Thạc, vào năm 1921. Ngài đã diệu nhập Phật tạng và thông suốt yếu lý giải thoát, chứng minh sự thành tựu nhanh chóng của mình trong con đường tu học và giáo dục Phật pháp. Tuy mới xuất gia, nhưng Ngài đã sớm trở thành một Tăng sĩ quảng kiến đa văn, đạo cao đức trọng.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm 1928, Hòa thượng Thích Khánh Hòa, hay pháp danh Như Trí, trụ trì chùa Tuyên Linh ở Bến Tre, đã tới trường Hương chùa Long Khánh ở Qui Nhơn, để làm Pháp sư. Tại đây, Ngài gặp và khâm phục tài năng và đức độ của một vị học giả đặc biệt, và họ quyết định kết giao và làm pháp hữu. Sau đó, cùng nhau, Hòa thượng Khánh Hòa và Ngài hợp tác chặt chẽ, đồng lòng hướng về mục tiêu chung là thúc đẩy phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Nam. Đồng thời, nhờ vào đóng góp lớn của Ngài, Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học đã tặng danh hiệu Tán trợ hội viên cho Ngài (bởi Ngài không thuộc Sơn môn Nam Kỳ).
Năm 1931, Hòa thượng Khánh Hòa và các pháp hữu hợp tác thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và phát hành tờ báo Từ Bi Âm, nhằm phục vụ công cuộc hoằng dương chánh pháp và thúc đẩy chấn hưng Phật giáo. Hòa thượng Khánh Hòa được bổ nhiệm làm Đệ nhất Phó Hội trưởng kiêm chủ nhiệm tạp chí Từ Bi Âm. Dù mang trách nhiệm làm Chủ nhiệm, Hòa thượng Khánh Hòa đã quyết định phó thác toàn bộ công việc biên tập cho Ngài, người cộng sự đắc lực là Hòa thượng Bích Liên, giữ chức vụ chủ bút.
Tờ báo Từ Bi Âm chính thức ra mắt vào ngày 01-3-1932, và trong suốt sáu năm, Ngài đã đảm nhiệm trách nhiệm nội dung, mặc dù chưa đạt được mức độ tinh thần văn hóa dân tộc mong muốn, nhưng đã đóng góp quan trọng trong việc phổ biến Phật học thông qua ngôn ngữ quốc ngữ, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo.
Năm 1934, Ngài quay về quê một thời gian ngắn để khai sơn chùa Bích Liên tại sinh quán (Bình Định). Hoàn thành nhiệm vụ này, Ngài rồi tiếp tục công việc điều khiển tòa soạn của báo Từ Bi Âm. Nhờ vào đóng góp xuất sắc, để tỏ lòng kính trọng, nhiều người trong tòng lâm đã quyết định tôn xưng Ngài bằng danh hiệu Hòa thượng Bích Liên – tên ngôi chùa mà Ngài đã khai sơn.
Năm 1937, Ngài trở về chùa Bích Liên, cùng lúc Hội Đà Thành Phật Học xuất bản tạp chí Tam Bảo, và mời Ngài làm chủ bút. Tạp chí này thường xuyên bàn về nhu cầu thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong khu vực thành một hội “Phật Giáo Liên Hiệp”.
Sáu tháng sau, năm 1938, tạp chí Tam Bảo bị cấm xuất bản. Kể từ đó, Ngài dành nhiều thời gian hơn cho công việc Phật sự tại quê nhà. Năm 1939, Ngài tham gia giảng dạy tại Phật học Đường Long Khánh do Hòa thượng Chánh Nhơn thành lập. Mặc dù thời gian chỉ là hai năm ngắn ngủi, nhưng ảnh hưởng của Ngài đã để lại dấu ấn trong lòng nhiều Tăng sinh, họ đã trở thành những Cao Tăng nổi tiếng trong Giáo Hội.
Thời kỳ viên tịch
Hóa duyên đã mãn, ngày mồng 3 tháng 6 năm Canh Dần (1950) Ngài viên tịch tại chùa Bích Liên, thọ 74 tuổi, xuất gia 31 năm. Ngài có kệ truyền thừa:
Chân ngọc hồng sơn chiếu
Trừng châu bích hải viên
Lý minh tri tánh diệu
Trí mật ngộ tâm huyền
Tịch duyên hoài túy liễu
Lạc quốc ngự kim liên
Thánh cảnh quy lai nhật
Tông phong chấn cổ truyền.
Tác phẩm
Về công việc trước tác và phiên dịch, ngoài những bài đăng trên báo Từ Bi Âm, Ngài còn viết các sách bằng chữ Hán:
- Liên Tông Thập Niệm Yếu Lãm.
- Tịnh Độ Huyền Cảnh.
- Tây Song Ký.
- Tích Lạc Văn.
Văn phong chữ Nôm của Ngài rất chỉnh. Ngài đã sáng tác nhiều áng văn hay cùng nhiều bài sám nghĩa lưu truyền. “Qui Sơn Cảnh Sách” và “Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi” là hai tác phẩm dịch Nôm nổi tiếng hơn cả, tiêu biểu sự nghiệp văn chương của Ngài.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995