Thân thế
Hòa thượng có thế danh Nguyễn Văn Cự, pháp danh Ngộ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ, sanh ngày mồng 8 tháng 4 năm Ất Hợi (1875) triều Tự Đức thứ 28, tại làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Gia đình họ Nguyễn của Ngài có truyền thống khoa bảng và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo qua nhiều đời. Trong gia tộc, có đến sáu vị đã xuất gia, trở thành những danh Tăng được kính trọng vì công đức lớn. Nội tổ của Hòa thượng là cụ Nguyễn Văn Bình, người đỗ tam khoa Tú tài, có công mở mang hương lý và được dân làng tôn vinh, liệt vào hạng “Hậu hiền khai khẩn”. Thân phụ của Hòa thượng là ông Nguyễn Văn Khanh, từng được triều đình bổ nhiệm làm quan tỉnh Bình Thuận. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Từ, người làng Diên Khánh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Cơ duyên tu hành
Năm Canh Dần (1890), khi Ngài 16 tuổi, mẹ mất, và sau đó, Ngài đi theo thân phụ chuyển đến Bình Thuận nhậm chức. Trên đường đi qua địa phận Nha Trang, thân phụ bất ngờ mắc bệnh và phải xin tá túc tại chùa nhỏ mang tên Hải Đức. Sau khi cha qua đời, Hòa thượng phải tự lo mai táng và đầu phiêu lang thang nơi đất xa lạ. Ngài sống cô độc, tự kiếm sống bằng cách vào rừng đốn củi để nuôi thân và tạo khói hương cho cha. Ngài cũng giúp đỡ công việc của chùa và mỗi tối, Ngài cùng các Tăng đọc kinh. Những hoạt động này đã mở đầu cho cơ duyên với Phật pháp, làm sâu sắc tâm thức của Hòa thượng khi còn là thiếu niên tràn đầy mơ ước.
Nhận ra rằng con đường giải thoát và sống xuất gia mới là lối thoát có thể báo hiếu tròn vẹn nhất, Hòa thượng quyết định đảnh lễ cầu xin xuất gia với Tổ Viên Giác, trụ trì chùa Hải Đức. Tổ ban pháp danh cho Hòa thượng là Ngộ Tánh. Với sự hiểu biết vững về Nho học từ thuở nhỏ và được hướng dẫn bởi gia đình về tinh hoa Phật Đà, trong thời gian xuất gia, Hòa thượng vượt trội hơn các bạn đồng sư và sớm nhận được Bổn sư ban pháp tự Hưng Long.
Năm Giáp Ngọ (1894), 20 tuổi, Hòa thượng xin được Tổ Viên Giác dời hài cốt của thân phụ về kinh và cải táng tại núi Thiên Thai, bên cạnh Tổ đình Thuyền Tôn. Tiếp theo, Ngài tiếp tục hành trì với Tổ Từ Hiếu và được thọ giới tại Đại giới đàn chùa Báo Quốc, do Tổ Hải Thuận, Tăng Cang chùa Diệu Đế làm Đường đầu Hòa thượng.
Năm Kỷ Hợi (1899), lúc 25 tuổi, Ngài xin phép được lập thảo am nhỏ để tu trì đồng thời có nơi phụng thờ song thân, tại làng Bình An cách chùa Từ Đàm về phía Đông gần một cây số. Lấy hiệu là Hải Đức Am ( sau này là chùa Hải Đức, đường Nam Giao – Huế).
Năm Giáp Thìn (1904), Ngài đắc pháp với Hòa thượng Tâm Truyền (trụ trì Tổ đình Báo Quốc – Huế), pháp hiệu là Phước Huệ với bài phú kệ như sau:
Thượng thừa Phật Tổ chấn tôn phong
Phó kệ truyền đăng pháp pháp đồng
Thiện quả viên thành tăng Phước Huệ
Tương kỳ đạo đức vĩnh Hưng Long.
Cũng năm này, Hòa thượng nhận chức trụ trì chùa Kim Quang, tọa lạc tại làng An Cựu, Huế, do bà Từ Minh – Hoàng Thái Hậu, đời vua Thành Thái kiến lập. Vua Thành Thái được cơ duyên gần gũi và lắng nghe pháp phát từ chùa này, từ đó, Ngài đã ghi nhớ và trọng trách Hòa thượng.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm Giáp Dần (1914), khi Hòa thượng trở về Nha Trang để thăm Bổn sư, nhưng khi đến, Ngài đã biết tin Tổ Viên Giác đã viên tịch từ lâu. Trong khi chùa Tổ đang hoang tàn và không có một bóng Tăng nào, Hòa thượng đã tích cực vận động trùng tu lại ngôi chùa. Không lâu sau, chùa Hải Đức đã trở thành một đạo tràng thanh lịch giữa Thành phố Nha Trang.
Năm Giáp Tý (1924), khi Ngài 50 tuổi, Chư sơn tỉnh Khánh Hòa đã suy tôn Hòa thượng làm Đường đầu Hòa thượng tại Đại giới đàn Nha Trang. Sau đó, Hòa thượng trở lại Huế, biến chùa Hải Đức thành một ngôi chùa tráng lệ ở đất Thần kinh như ngày nay.
Năm Giáp Tuất (1934), Ngài quay về quê hương Quảng Trị để vận động trùng tu Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang ở làng Ái Tử. Công việc này kéo dài hơn bốn năm trước khi hoàn thành.
Vào năm Canh Thìn (1940). Ngay sau khánh thành Tổ đình Tịnh Quang, Giáo Hội tỉnh Quảng Trị thỉnh Ngài làm Đường đầu Hòa thượng trong Đại giới đàn của tỉnh và vua Bảo Đại ban chiếu chỉ cử Ngài làm Tăng Cang Tổ đình Báo Quốc.
Trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến 1945, Hòa thượng liên tục đảm nhận chức Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già tỉnh Thừa Thiên. Trong bối cảnh Phật giáo nước nhà, công việc chấn hưng cũng là mối quan tâm lớn của Hòa thượng. Vì vậy, Ngài đã chọn Thượng tọa Bích Không, một người am tường nhiều sở thích, để hỗ trợ thực hiện các Phật sự quan trọng. Trước hết, Ngài quyết định dời chùa Hải Đức từ trung tâm thành phố Nha Trang lên núi Trị Thủy ở ngoại ô thành phố, thuộc làng Phước Hải. Công việc này diễn ra trong năm Quý Mùi (1943), khiến chùa trở thành một cơ sở đào tạo quan trọng, là Phật Học Viện Hải Đức – Nha Trang, với uy tín vô cùng lừng danh.
Năm Tân Mão (1951), Hòa thượng đã tới thăm đồng môn là Hòa thượng Phổ Nhãn, đang trụ trì Tổ đình Thiên Bửu. Ngài khuyến khích Hòa thượng Phổ Nhãn tiến cúng ngôi Tổ đình cho Giáo Hội Ninh Hòa, chọn làm trung tâm hoằng dương chánh pháp trong khu vực. Sau đó, cả hai hòa thượng đồng lòng vận động trùng tu lại Tổ đình.
Năm Giáp Ngọ (1954), khi Tổ đình Thiên Bửu được khánh thành, Giáo Hội Ninh Hòa tổ chức Đại giới đàn tại đây và cung thỉnh Hòa thượng làm Đường đầu Hòa thượng.
Năm Bính Thân (1956), Hòa thượng đã ký văn bản tiến cúng chùa Hải Đức, Nha Trang cho Giáo Hội Trung Phần, nhằm làm nơi đào tạo Tăng Ni. Việc này được thực hiện bằng văn bản đề ngày 27.7 và ngày 29.9 là lễ bàn giao. Bởi vì yêu cầu cấp thiết của công việc đào tạo và nhìn đến tương lai phồn thịnh, Hòa thượng đã đưa ra quyết định một cách nhanh chóng và không ngần ngại.
Năm Nhâm Dần (1962), Hòa thượng rời khỏi Quảng Trị để kiến thiết tượng đài Quan Thế Âm tại Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang.
Trong cuộc đời hoằng hóa, độ chúng của Ngài, 70 năm trải đều trên con đường xuyên Việt, từ Trị Thiên đến Khánh Thuận. Ngoài những việc làm tích cực mang ý nghĩa đạo pháp to lớn, Ngài còn để tâm đến những việc nhỏ khác. Tiêu biểu cho những vịệc làm ấy như sau:
- Để bầu ra được Ban Quản Trị Tổ đình Báo Quốc, Ngài phải đứng đầu phiên họp của Hội đồng Sơn môn Tăng già Thừa Thiên ngày 4 tháng 4 năm Mậu Tý (1948).
- Ngài đã vận động các vị Tỳ Kheo còn nặng nợ trần, nhanh chóng giao trả Tổ đình Từ Đàm lại cho Giáo hội.
- Đại trùng tu chùa Kim Quang ở An Cựu – Huế.
- Chứng minh và cổ động cho việc trùng hưng chùa Phổ Đà, Đà Nẵng.
- Chùa Phật Quang – Thị xã Phan Thiết cũng được Ngài tận tình chiếu cố.
Ngoài ra, trong một khoảng thời gian, Hòa thượng đã tận dụng cơ hội để học thêm Pháp môn Mật Tông ở miền Bắc. Do đó, Ngài đã có dịp chữa trị cho nhiều người, đặc biệt là những người mắc bệnh tâm thần, mang lại sự giúp đỡ cho họ.
Đệ tử xuất sắc
Trong sự nghiệp nhiếp hóa đồ chúng và truyền dạy giáo lý, Hòa thượng đã thành công trong việc đào tạo một đội ngũ đệ tử xuất sắc, trong đó có những người tiêu biểu như:
- Hòa thượng Bích Phong (1900-1968), người trụ trì chùa Quy Thiện và sau đó kế thừa Tổ đình Báo Quốc.
- Hòa thượng Bích Không (1894-1954), từng giữ chức trụ trì chùa Hải Đức vào năm 1943.
Ngoài ra, không ít đệ tử của Hòa thượng là những người nước ngoài, đủ quốc tịch. Đặc biệt, có một người Mỹ, là kỹ sư Frank M. Bazl, đã đến tìm đến Hòa thượng và xin nhận Hòa thượng làm cha đỡ đầu trên con đường tu học, vào ngày 27-4-1958.
Thời kỳ viên tịch
Ngài thường hay nói trong những ngày trước khi viên tịch:
“Ta ra đời nhằm ngày Đản Sinh của đức Từ Phụ thì sau ta cũng chọn ngày ấy mà viên tịch”. Ngày mồng 8 năm Quý Mão (1963), Ngài không thấy trang hoàng cờ phướn để đón mừng Phật Đản như mọi khi và khi biết Giáo Hội chủ trương dời ngày lễ Phật Đản vào đúng ngày rằm, Ngài nói: “Rứa thì ta cũng đợi đến ngày rằm…”.
Và quả đúng như lời của bậc thánh giả, lúc 11 giờ 30 ngày rằm tháng 4 năm Quý Mão ( 1963 ). Ngài thị tịch, thọ 89 tuổi, với 68 hạ lạp.
Bảo tháp của Ngài được tôn trí trong khuôn viên chùa Hải Đức – Huế.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995