Thân thế
Tổ Hoằng Ân thế danh Nguyễn Văn Khiêm, húy Minh Khiêm, pháp hiệu Liễu Khiêm-Diệu Nghĩa, là một nhân vật lịch sử quan trọng trong hành trình truyền bá Phật pháp và đóng góp vào sự phát triển của thiền môn ở Việt Nam. Ngài sinh ngày Rằm tháng 07 năm Canh Tuất (1850), tại làng Bà Điểm, tỉnh Gia Định.
Ngài sinh ra trong một gia đình nông dân, hai vị thân sinh do tham gia vào cuộc nổi dậy chống sưu cao, thuế nặng của triều đình nhà Nguyễn nơi mười tám thôn vườn trầu và bưng tầm lạc, để tránh sự truy đuổi, liên lụy đến con, nên gởi Ngài lại nhờ bà con nuôi giúp để lánh mặt, tránh những đợt truy lùng gắt gao của triều đình.
Cơ duyên tu tập
Năm 1859, lúc vừa 9 tuổi, thực dân Pháp sau khi đánh chiếm thành Gia Định đã cử binh đến nơi đây, nhưng đã bị nông dân kiên cường đứng lên nổi dậy chống trả quyết liệt, kế đó nghĩa binh Trương Định sau khi đánh phá đồn Thuận Kiều đã kéo quân về đây và được nhân dân trao thanh kiếm Bình Tây Đại Nguyên Soái. Giữa lúc tình thế binh biến rối ren nhiều biến đổi, do tuổi nhỏ, Ngài không thể tìm lại được song thân của mình. Vì thế tên tuổi của hai người cho đến mãi về sau vẫn chưa được biết tới, sống chết như thế nào, tại đâu?
Cho đến hiện nay, chưa có thêm sử liệu nào ghi lại ngày tháng Ngài xuất gia lúc bao nhiêu tuổi. Chỉ biết Ngài đã đến chùa Giác Lâm (Nay ở quận Tân Bình – Sài Gòn) xin xuất gia với Tổ Hải Tịnh. Khi xuống tóc trở thành người con của Phật, là một vị Tăng xuất gia, Ngài hết lòng học hỏi, tham cứu tất cả các Pháp yếu nơi Thiền môn.
Với trí tuệ, tư chất thông minh, Ngài sớm ngộ Đạo, vượt xa với Pháp lữ đồng môn đã xuất gia trước mình trong một khoảng thời gian rất ngắn. Do đó, Ngài được Bổn sư chú ý, chăm sóc, chỉ bảo, dạy dỗ tận tình. Ngoài sở học uyên thâm, Ngài còn có phong thái nhanh nhẹn, điềm đạm, với vóc người cao ráo, thanh thoát, hội tụ đủ các tướng hảo của một vị Tỷ khiêu xuất trần vi thượng sĩ.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm 1870, Ngài được trao nhiệm vụ trụ trì chùa Giác Viên khi vừa đúng 20 tuổi. Với tài năng của mình, Ngài nhanh chóng được công nhận là một Tỷ khiêu được công nhận về kiến thức uyên thâm, hiểu biết rộng lớn, và sự chuyên sâu trong Phật pháp, là một trường hợp cá biệt, rất hiếm thấy nơi lịch sử các vị Tổ đức xưa. Đủ để khẳng định hoài bão mà Bổn sư Ngài đã đặt kỳ vọng trên con đường hoằng dương Phật pháp sau này.
Năm 1876, ở độ tuổi 26, Ngài lại được cử làm Giáo thọ và đã được Tăng chúng kính trọng do sự tinh tấn và uyên thâm Phật pháp. Cũng năm đó, Tổ Minh Vi – Mật Hạnh (trụ trì chùa Giác Lâm) cảm thấy sức khỏe suy yếu, mệt mỏi, trong thời gian ấy, Tổ nhận thấy vị Tăng trẻ như Ngài lại có nhiều thành tựu tinh tiến trên con đường Phật pháp, lại đầy trách nhiệm, nên đã giao cho Ngài cùng lúc trụ trì hai ngôi chùa Giác Viên và chùa Giác Lâm.
Năm 1899, với trách nhiệm của mình, Ngài đã cho tiến hành trùng tu lại ngôi chùa Giác Viên. Đây được xem là lần trùng tu lớn nhất trong lịch sử của chùa. Trong đó, Ngài cho mở rộng mặt bằng chùa và chỉnh trang lại chánh điện theo đúng sở nguyện chư Tổ đời trước chưa có dịp thực hiện được.
Cũng như các vị Tổ trong Tông môn, Ngài cũng không có đệ tử nhiều ngoài hai thầy Như Nhu – Chơn Không và Như Phòng – Hoằng Nghĩa. Vì thế, thời gian kế tiếp Ngài đã cử thầy Chơn Không trụ trì chùa Giác Viên (Chức trụ trì nơi này khi Ngài Chơn Không tịch thì được trao cho Ngài Như Phòng tiếp nối), giúp cho Ngài có thời gian tập trung vào công việc phổ cập Phật pháp trong khoảng thời gian đó mà không ảnh hưởng đến công tác Phật pháp.
Sự kiện nổi bật trong việc hoằng đạo, truyền bá Phật pháp của Ngài là việc sao chép kinh sách, bằng cách cho khắc bản gỗ kinh, luật và diễn nôm một số sách Phật giáo khác. Số lượng công trình biên tập diễn nôm và các loại sách khác do Ngài chứng minh rất nhiều, nhưng cũng đã thất lạc không ít. Hiện nay, chỉ còn lưu lại một số như bản chép tay bộ Kinh Pháp Hoa được chép vào năm Bính Tuất (1886), mỗi phẩm đóng thành một tập.
Năm 1880, tác phẩm bằng thơ lục bát dưới dạng chữ Nôm, tập “Hứa Sử Vãn Truyện” cũng được Ngài cho khắc mộc bản gỗ để in lại.
Năm 1894, với bộ sách Thiền Môn Trường Hàng Luật bằng chữ Hán, được Ngài cho chỉnh sửa, biên tập, tóm lược lại bằng chữ Nôm và đặt tên là “TỲ NI NHỰT DỤNG YẾU LƯỢC” và cho khắc in phổ biến rộng rãi trong đại chúng Phật tử.
Để tiến hành thực hiện khắc in bộ Luật nói trên cùng nhiều loại sách khác, Ngài đã nhờ đến sự trợ lực của Ngài Đạt Lý – Huệ Lưu (trụ trì Chùa Huê Nghiêm, Thủ Đức), giúp phần sao chép để khắc vào bản gỗ. Với khối lượng trang sách cần được khắc lớn, bao quyển sách thì cũng bấy nhiêu số lượng bản gỗ cần để khắc. Và như thế, ngay tại chùa Giác Viên, Ngài đã cho mời những người thợ khắc về tại chùa để thực hiện công trình.
Ngài đã dồn công sức và mạnh dạn thực hiện công trình in bộ Luật quan trọng ấy, bởi ý thức được rằng đó sẽ là bộ sách giáo khoa đầu tiên ở cấp sơ học, rất cần thiết cho các chùa ở Nam Bộ. Kết quả là đã trở thành giáo trình học tập nơi các cuộc khảo thí của những Trường Hương, Trường Kỳ thời bấy giờ.
Năm 1898, một số kinh chủ yếu như Nhơn Quả Thực Lục Toàn Bản, Lăng Nghiêm Kinh Tán, Thí Thực Khoa v.v… được Ngài chứng minh dưới bản khắc với tên Diệu Nghĩa, và diễn nôm Tống Đàn Tăng.
Năm 1912, Ngài còn đứng ra hiệu đính cho bộ Quy Nguyên Trực Chỉ do đệ tử là Ngài Từ Phong- Như Nhãn diễn nôm. Trong số kinh sách chép tay lưu lại, hiện còn thủ bút của Ngài bằng hai câu đối. Trong đó nêu lên Pháp danh, Pháp hiệu và tên chùa Giác Viên:
Giác ngộ đốn Hằng Ân,
ân mộc Như Lai thọ ký.
Viên thông minh Diệu Nghĩa,
nghĩa tùng Bát Nhã nghiên cầu.
Hành trình du hóa xiển dương, phổ độ Phật pháp
Ngoài việc thực hiện các công trình in khắc kinh trên, Ngài còn dành rất nhiều thời gian du hóa khắp nơi. Bước chân Ngài đã từng trải suốt cả đồng bằng sông Cửu Long như Mỹ Tho, Đồng Tháp, Cửu Long, An Giang, Hà Tiên v.v… Ngài đi bằng tất cả phương tiện, có lúc phải đi bộ, kể cả trèo đèo băng suối như khi qua vùng hiểm trở Thất Sơn. Đặc biệt, tại Tiền Giang và An Giang, Ngài đã trụ lại một thời gian khá dài từ năm 1905 cho đến khi viên tịch.
Trong thời gian ở mảnh đất Tiền Giang, Ngài đã tu tập tại am Viên Giác, cách chùa Bửu Lâm không xa, do đệ tử là Thiên Trường dựng. Cũng tại nơi đây, khoảng năm Ất Mùi (1895) Ngài đã đứng ra vẽ kiểu và chứng minh cho việc xây dựng ngôi chùa Vĩnh Tràng, một ngôi chùa lớn nhất Nam Bộ hiện nay.
Sau khi rời Tiền Giang, Ngài đi sang một số tỉnh khác và trụ lại chùa Tây An (Núi Sam – Châu Đốc). Đến đâu Ngài cũng để lại niềm kính mến sâu xa trong lòng Tăng chúng và Phật tử. Cho đến hôm nay, khi nhắc đến Ngài, Phật tử nơi này vẫn còn gọi Ngài là “Tổ Núi Sam”. Thời gian tại chùa Tây An, Ngài ở trong một am nhỏ sau chùa do Sư bà Như Thành – Diệu Danh là đệ tử của Ngài dựng nên và thường xuyên công quả lo cơm nước cho Ngài. Tại đây, Ngài còn hai thị giả nữa là Thiện Diệu (chùa Châu Viên) và một vị là thư ký nên gọi là Ký Viên (chùa Pháp Võ).
Thời kỳ viên tịch
Những ngày cuối trên con đường xiển dương Phật pháp, Ngài không cảm thấy đau nhức của tuổi già như các bậc danh Tăng cùng tuổi, mặc dù Ngài đã đi suốt cả một thời gian dài như thế. Ngược lại, những ngày này Ngài càng tráng kiện và minh mẫn hơn. Do đó, Ngài tận dụng những giây phút hiếm hoi còn lại để khuyên nhủ các đệ tử, nhắn gởi về Giác Lâm, Giác Viên chăm lo giữ gìn ngôi chùa Tổ v.v…
Vào giờ Thìn, ngày 29 tháng Giêng năm Giáp Dần (1914) Ngài đã thâu thần thị tịch tại chùa Tây An (Núi Sam – Châu Đốc). Hưởng thọ 64 tuổi. Nhục thân Ngài sau đó được đưa về nhập tháp tại chùa Giác Lâm (Sài Gòn). Tại chùa Tây An tháp vọng cũng được dựng lên để kính thờ Ngài. Với hành trạng như thế Ngài thật quả xứng đáng là người hậu duệ đời thứ 38 dòng Lâm Tế (Bổn Ngươn) và truyền thừa cho các đệ tử sau này như Ngài Đạt Lý – Huệ Lưu (chùa Huê Nghiêm, Thủ Đức), Như Lợi (chùa Giác Lâm), Như Nhu – Chơn Không, Như Phòng – Hoằng Nghĩa (chùa Giác Viên), Như Nhãn – Từ Phong (chùa Giác Hải, Q.6 – TP. HCM) và chùa Thiền Lâm (Tây Ninh).
Tham khảo
-
Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995