Thân thế
Hòa thượng Thích Vạn Ân, thuộc dòng Lâm Tế, tông Liễu Quán, đời thứ 42, húy Trừng Thành, sinh năm 1886 tại thôn Vạn Lộc, xã Hòa Mỹ, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Ngài xuất thân từ một gia đình Nho phong danh tiếng trong địa phương, với thân phụ là cụ Nguyễn Chơn Tịnh và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Liên.
Gia đình Ngài là những người thâm tín Tam Bảo và có nhiều vị xuất gia danh tiếng. Chính sự hiệp nhất của song thân Ngài đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng danh tiếng cho Tổ đình Khánh Long.
Cơ duyên tu hành
Trong thời thơ ấu, Ngài đã theo học Nho và được biết đến là một nho sinh thông minh và hoạt bát. Song thân Ngài đã hướng dẫn Ngài về lễ Phật và bái sám hàng ngày. Năm 12 tuổi, với sự cho phép của song thân, Ngài quyết định xuất gia và cầu pháp với Tổ Nguyên Đạt chùa Long Tường, nơi Ngài được nhận làm đệ tử với pháp danh là Trừng Thành.
Năm 21 tuổi (Đinh Mùi – 1907), Ngài được Bổn sư cho thọ Cụ Túc giới tại Đại giới đàn chùa Sắc Tứ Long Sơn Bát Nhã ở Tuy An. Sau đó, Ngài tiếp tục học tập với Tổ Bát Nhã trong 5 năm.
Năm 26 tuổi, Ngài được mời vào hàng Tam sư làm Yết ma tại Đại giới đàn chùa Mông Sơn ở Phan Rang. Với chí nguyện hoằng pháp và du hóa đạo khắp miền Trung và Nam bộ, Ngài đã đến nhiều địa điểm như Ninh Thuận, Bình Thuận, Biên Hòa, Bà Rịa, Châu Đốc, và Buôn Ma Thuột.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm Đinh Mão (1927), Ngài được mời làm giảng sư tại Phật học đường gia giáo chùa Giác Hoa tỉnh Bạc Liêu trong 3 năm, nơi Ngài có cơ hội hợp tác với Hòa thượng Khánh Anh, một cao Tăng có đóng góp quan trọng trong việc phổ cập Phật giáo tại miền Nam. Ngài sau đó tiếp tục giảng dạy tại Phật học đường chùa Tây Thiên và chùa Kim Sơn tại tỉnh Ninh Thuận, đồng thời làm Pháp sư giảng luật tại trường Hương chùa Trùng Khánh ở Phan Rang.
Năm Ất Hợi (1935), chùa Sắc Tứ Bát Nhã mở trường Hương và Ngài được mời làm Thiền chủ. Năm Kỷ Sửu (1949), Ngài được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng, tái thí truyền giới tại giới đàn chùa Bảo Sơn – Tuy An. Năm Đinh Dậu (1957), Ngài được cung thỉnh làm Yết Ma A Xà Lê tại đại giới đàn Phật học viện Hải Đức ở Nha Trang, do đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên chùa Thiền Tôn – Huế làm Đàn đầu và Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Đàn chủ.
Mặc dù Hòa thượng đã vân du, hóa đạo rộng khắp nhiều nơi, nhưng thường trú của Ngài ban đầu là Tổ đình Khánh Long. Dưới sự khai hóa của Ngài, Tổ đình luôn nhộn nhịp với sự hiện diện của các Tăng và người tục, cũng như sự tập trung của các danh nho và trí sĩ đương thời tìm đến để học đạo. Sau đó, Ngài quyết định xây dựng ngôi già lam mới tại Tổ đình Hương Tích, một danh lam thắng tích với vẻ đẹp tự nhiên, thuận tiện cho việc giảng dạy và tu tập của Tăng tục gần xa.
Đây là nơi trụ sở chính thức và thứ hai của cuộc đời hoằng đạo của Hòa thượng, và từ đó, Tăng tín đồ thường gọi Ngài là Hòa thượng Hương Tích. Năm Ất Mùi (1955), môn đồ từ khắp nơi đổ về đây an cư tu học trong ba tháng để hưởng lợi từ sự hướng dẫn của Tôn sư.
Năm 1964, do chiến tranh bùng nổ khắp nơi, Hòa thượng và Tăng chúng buộc phải tạm lánh về Tổ đình Bửu Tịnh tại thị xã Tuy Hòa, là trụ sở của Tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Phú Yên. Tỉnh Giáo Hội cung thỉnh Hòa thượng làm Trưởng ban trùng tu Tổ đình Bửu Tịnh và thừa kế tổ nghiệp tại đây. Trong thời kỳ này, Ngài cũng được cung thỉnh vào ngôi vị Chứng minh đạo hạnh cho Tỉnh Giáo Hội.
Ngoài việc khai sơn Tổ đình Hương Tích, Hòa thượng đã đóng góp xây dựng mới và trùng tu trên hai mươi lăm ngôi chùa, bao gồm cả những nơi lưu giữ di tích lịch sử và những nơi đã hoang phế do thời gian.
Trong số các chùa mới, đáng chú ý là chùa Phi Lai ở xã Hòa Tịnh, chùa Cảnh Long ở xã Hòa Tân, chùa Cảnh Thái và Niệm Phật Đường ấp Nhì ở xã Hòa Vinh, chùa Ân Quang ở xã Hòa Thành, Niệm Phật Đường thôn Bàn Thạch, xã Hòa Xuân, chùa Hưng Long thôn Uất Lâm, xã Hòa Hiệp, chùa Liên Sơn và chùa Thanh Hương ở xã Hòa Phong, chùa Pháp Võ thôn Mỹ Thành, chùa Châu Lâm thôn Ngọc Lâm, chùa Quảng Long thôn Quảng Tường, xã Hòa Mỹ, Niệm Phật Đường Hồng Ân tại Trung tâm cải huấn thị xã Tuy Hòa.
Về công trình trùng tu và tái thiết, Hòa thượng đã đóng góp vào chùa Long Sơn thôn Phụng Tường, chùa Long Thọ thôn Qui Hậu xã Hòa Trị, chùa Mỹ Quang xã Hòa Phong, chùa Hòa Sơn, Tổ đình Thượng Tiên Thọ Vân xã Hòa Kiến. Ngoài ra, Ngài còn thực hiện khai sơn nhiều chùa ở các tỉnh, như chùa Diên Thọ, chùa Bửu Liên, chùa Bửu Tích, chùa Bửu Tạng tại Phan Rí – Bình Thuận, và chùa Từ Ân ở Buôn Ma Thuột.
Trong hành trình hoằng pháp, lợi sinh hóa độ, Hòa thượng đã để lại những dấu ấn đáng nhớ. Ngài tự tay đóng góp xây đường đèo Xương Cá ở thôn Phú Điền, xã Hòa Kiến, giúp cộng đồng địa phương di chuyển dễ dàng hơn. Ngoài ra, Ngài tổ chức lễ cầu siêu suốt 7 ngày 7 đêm cho nạn nhân của bão lụt năm Giáp Tý (1924) tại thôn Hà Lò, xã Hòa Hiệp, một hành động mà mọi người vẫn nhớ mãi.
Là một thiền sư đức độ, Hòa thượng Thích Vạn Ân luôn thể hiện tâm tình bình dị, lòng nhân ái, và sự bao dung độ lượng. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ và hướng dẫn đồ chúng, không phân biệt giữa cao thấp, thân sơ. Ngài chăm sóc và giáo dục Tổ nghiệp, tận tâm dạy dỗ đệ tử, hướng dẫn chúng sinh.
Trong suốt sự nghiệp của mình, Ngài đã đào tạo hơn năm mươi đệ tử xuất gia và hàng ngàn đệ tử tại gia trong và ngoài tỉnh. Một số trong số họ, như Hòa thượng Diêu Quang, Hòa thượng Diêu Tâm, và Đại Đức Thích Nguyên Hương, đã trở thành những người có uy tín trong Giáo hội và đang đảm nhận nhiều trách nhiệm Phật sự.
Đại Đức Thích Nguyên Hương, người đã dùng nhục thân đốt lên ngọn đuốc thứ hai sau Bồ Tát Thích Quảng Đức tại Sài Gòn trong mùa pháp nạn 1963, là pháp điệt gọi Ngài bằng Sư Ông.
Hòa thượng chuyên hành trì Mật tông và pháp môn Tịnh độ. Hàng ngày, Ngài thực hiện thời khóa tụng tối khuya một cách đều đặn và kiên trì. Những hoạt động hành trì này đã mang lại những kết quả đáng kinh ngạc.
Thời kỳ viên tịch
Đối mặt với nhiều căn bệnh khó khăn, Hòa thượng đã chữa khỏi bằng sức mạnh của Mật chú. Tổ đình Hương Tích trở thành một nơi chữa trị đa dạng loại bệnh, từ tâm thần đến bệnh nhi, và tà nghiệp.
Vào đầu tháng 2 năm Đinh Mùi (1967), khi Ngài cảm nhận rằng cơ duyên giáo hóa đã đầy đủ, và sự thị hiện trên thế gian không còn lâu nữa, Ngài thông báo cho môn đồ ở các nơi về để có cuộc gặp mặt cuối cùng. Rồi vào nửa đêm ngày mồng 8 tháng 2, ngày vía đức Bổn Sư Thích Ca xuất gia, Hòa thượng Thích Vạn Ân tịch tại Tổ đình Bảo Tịnh, hưởng thọ 82 tuổi, 61 tuổi hạ.
Kim quan của Ngài được đưa về quyền táng tại chùa Ân Quang xã Hòa Thành. Vào năm Bính Thìn (1976), linh cốt của Hòa thượng được đưa về nhập tháp tại Tổ đình Hương Tích.
Tham khảo
-
Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995