Thân thế
Hòa thượng Liên Tôn, hay thế danh Võ Trấp, hiệu Đồng Gian (Thiện Minh Tử), pháp danh Như Phước, tự Giải Tiềm, hiệu Huyền Ý (Liên Tôn là tên ngôi chùa do Ngài khai sơn năm 41 tuổi), sinh ngày 19 tháng 9 năm Tân Hợi (1891) tại làng Hưng Trị, xã Cát Thắng, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
Ngài là con út, lại là con trai duy nhất của gia đình có truyền thống khoa bảng, Ngài lớn lên trong gia đình với cha là ông Tú tài Võ Toản và mẹ là bà Lê Thị Viện, hay pháp danh Trừng Viện. Ngay từ khi mới sinh, thân mẫu đã đưa Ngài đến quy y với Hòa thượng chùa Tịnh Lâm (huyện Phù Cát), hiệu Từ Mẫn, và được ban pháp danh Như Phước.
Năm 1899, lúc 8 tuổi, Ngài được gia đình mời thầy về nhà để giáo dục, với nguyện vọng là Ngài sẽ tiếp bước truyền thống học thuật của gia đình. Ngài nhanh chóng thành thạo chữ Hán và cả chữ Quốc ngữ.
Năm 1910, khi 19 tuổi, Ngài, là con trai duy nhất, chấp nhận lời mời của cha mẹ và lập gia đình với cô Phạm Thị Thuận, người cùng làng và được sắp xếp hôn nhân từ trước.
Ngài thi đỗ bằng Tú tài vào năm 21 tuổi, nhờ vào sự học uyên thâm, tinh tiến và sự hỗ trợ của gia đình. Năm 23 tuổi, Ngài tốt nghiệp ngành sư phạm và được bổ nhiệm ngay học vị Giáo sư.
Cơ duyên tu hành
Trong thời gian tiếp theo, Ngài vừa giảng dạy vừa tập trung nghiên cứu kinh tạng. Nhờ vào sự uyên thâm trong Hán học và khả năng nhận thức cao, Ngài dễ dàng tiếp xúc với tinh hoa Phật pháp. Đồng thời, Ngài hướng dẫn gia đình cùng tu học và khuyến khích những người xung quanh đến gần với Phật giáo. Trong quá trình tham cứu nội tạng kinh điển, Ngài đặc biệt quan tâm đến bộ sách hai quyển “Long Thơ Tịnh Độ” (do hòa thượng Bích Liên – Trí Hải cho mượn), và đây cũng là nhân duyên khởi đầu và nội dung hành hóa Ngài mang theo suốt quãng đời.
Năm 1929, 38 tuổi, Ngài đến xin xuất gia với Tổ Từ Mẫn, chùa Tịnh Lâm Bình Định. Mặc dù làm Phật tử muộn, nhưng do thời gian còn tại gia, Ngài đã nghiên cứu và thâm nhập Tam tạng giáo điển, đặc biệt nhờ được gần gũi với hòa thượng Trí Hải, Ngài nhanh chóng trở thành một học giả hạnh kiểm toàn. Trong giai đoạn này, từ sở học uyên thâm và sự khuyến khích từ chư sơn, Ngài đã sáng tác bài thơ nổi tiếng bằng chữ Hán có tựa là “Đáo Liên Thành Lộ”.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm Tân Mùi (1931), theo đề xuất của Hòa thượng Bích Liên và Hòa thượng Khánh Hòa, Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học đã gửi Ngài về Nam để đảm nhiệm trách Phó Chủ bút tạp chí Từ Bi Âm, cùng điều hành tòa soạn với Hòa thượng Bích Liên.
Trong giai đoạn từ 1932 đến 1938, nhờ sự tương hợp tâm lực đó, Ngài đã đóng góp quan trọng cho việc phát triển tạp chí Từ Bi Âm, biến nó thành một công cụ uy tín và nổi tiếng nhất trong lĩnh vực truyền bá Phật học thời kỳ đó. Đây là một phần quan trọng trong nỗ lực chấn hưng Phật giáo, đặc biệt trong giai đoạn mạnh mẽ của sự phát triển. Tạp chí đã dành nhiều không gian để giới thiệu về thân thế và đóng góp của Ngài.
Năm Nhâm Thân (1932), Ngài trở về quê nhà để khai sơn chùa Liên Tôn, sau đó trở lại Nam tiếp tục công tác Phó chủ bút của tạp chí Từ Bi Âm và nhận danh từ Liên Tôn theo truyền thống miền Trung.
Năm Mậu Dần (1938), khi báo Từ Bi Âm bị đình bản, Ngài quyết định quay về chùa Liên Tôn, tiếp tục nghiên cứu giáo pháp bên cạnh việc hỗ trợ phụ thân.
Thời kỳ kháng chiến
Năm Kỷ Sửu (1949), trong bối cảnh quan trọng của đất nước và với mong muốn hòa đồng Phật pháp vào thực tế xã hội, Ngài đã nhận lời mời của các cấp lãnh đạo cách mạng, trở thành Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc Liên khu 5. Trong vị trí này, Ngài nhận được sự hỗ trợ và ủng hộ nhiệt tình từ các đồng hương. Ban lãnh đạo Hội có sự tham gia của Hòa thượng Phước Hộ và Hòa thượng Trí Nghiêm là hai ủy viên, cùng với Hòa thượng Huyền Quang giữ chức Tổng thư ký.
Từ đó, Ngài luôn thể hiện tinh thần tiến thủ, mang theo nhiều ý niệm cách tân và củng cố nếp sống thiền gia cho Tăng chúng, theo tinh thần Phật giáo mà phát triển. Điều đáng chú ý nhất là chủ trương Thiền Tịnh song tu và sự mở cửa rộng rãi để giúp đỡ Ni giới, đảm bảo họ có điều kiện tiến tu phù hợp với chủ trương chấn hưng Phật giáo.
Các đệ tử thọ pháp trực tiếp với Ngài đã rất nhiều, nhưng hiện nay chỉ còn Hòa thượng Đồng Huy. Trong số Ni giới, có Sư bà Tâm Đăng, đang trụ trì chùa Linh Sơn và nhiều hệ phái khác.
Một điểm đáng chú ý là Sư bà Hương Quang, người con thứ tám của Ngài, cũng đã theo đuổi con đường giải thoát từ khi Ngài trở về khai sơn Liên Tôn Tự. Sư bà thọ pháp xuất gia với Hòa thượng Trí Hải và sớm trở thành một trong những Ni chúng xuất sắc thời kỳ đó. Đây không chỉ là sự kế thừa trong gia đình, mà còn là kết quả của sở học và ý chí tiến tu.
Tác phẩm
Tác phẩm của Ngài, ngoài bài thơ Đáo Liên Thành Lộ còn có trước tác và Ngài phiên dịch:
- Sa Di Luật diễn nghĩa.
- A Di Đà kinh diễn nghĩa.
- Kim Cang Bát Nhã diễn nghĩa.
- Chứng Đạo Ca diễn nghĩa.
- Kinh Pháp Bảo Đàn.
- Luận về Nhơn Quả.
- Luận về Niết Bàn.
- Nghiên cứu duy thức A Lại Da.
- Luận về sáu pháp Ba La Mật.
- Luận về Chánh tín – Mê tín.
Tiểu thuyết:
- Hiếu nghĩa cảm phẩm.
- Tu là Cội phúc.
Đáng tiếc thay, nhiều tác phẩm, đáng kể nhất là bài thơ “Đáo Liên Thành Lộ”, cho đến ngày nay vẫn còn thất lạc chưa tìm được.
Thời kỳ viên tịch
Năm Tân Mão (1951), Tỉnh Hội Phật Giáo Bình Định tổ chức khóa huấn luyện cán sự hành chánh tại xã Cát Thắng, huyện Phù Cát, bắt đầu vào ngày 18 tháng giêng. Trong số những người tham gia, có sự hiện diện của Ngài.
Khóa học được kết thúc vào ngày 27 tháng giêng, và theo lời mời của Ngài, toàn bộ nhân sự tham gia khóa huấn luyện đã đến chùa Liên Tôn để thọ trai. Đúng trong ngày ấy, Ngài đã thị tịch trước đại chúng, hưởng thọ 60 tuổi đời và 22 giới lạp.
Hiện tháp mộ của Ngài tọa lạc phía Tây Nam trong khuôn viên chùa Liên Tôn.
Với bấy nhiêu công đức, Pháp sư Liên Tôn xứng đáng nhận sự kính trọng và mến mộ của thời nhân và hậu thế.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995