Hòa thượng Như Phòng – Hoằng Nghĩa (1867 – 1929)

Hòa thượng Như Phòng – Hoằng Nghĩa (1867 – 1929)
23:38 - 19.05.2024
Hòa thượng Hoằng Nghĩa, được biết tới với húy Như Phòng, thế danh Trần Văn Phòng, Ngài sinh ngày 29 tháng 9 năm Đinh Mão (1867) tại làng Bình Thới, tỉnh Gia Định. Thuộc dòng Lâm Tế Bổn Ngươn, đời thứ 39.

    Thân thế

    Hòa thượng Hoằng Nghĩa, được biết tới với húy Như Phòng, thế danh Trần Văn Phòng, Ngài sinh ngày 29 tháng 9 năm Đinh Mão (1867) tại làng Bình Thới, tỉnh Gia Định. Thuộc dòng Lâm Tế Bổn Ngươn, đời thứ 39.

    Năm ấy, niên hiệu Tự Đức thứ 19, sau bảy năm sự kiện thành Gia Định thất thủ, và cũng là ba năm sau khi Trương Định cự tuyệt mệnh lệnh triều đình không chịu rời Gò Công, nơi được nhân dân phong tặng Bình Tây Đại Nguyên Soái. Lúc ấy, Tướng Nguyễn Tri Phương với hai trăm khẩu thần công đã không thể giữ được thành Gia Định, đồn Chí Hòa – Phú Thọ…

    Vào năm 1867, Pháp vừa chiếm ba tỉnh miền Tây, chưa kể đến các sự kiện nghĩa quân nổi dậy khắp Nam kỳ lục tỉnh v.v. Bởi vậy, nơi Ngài sinh ra là một trong những nơi mà song thân của mình đã dừng chân tha phương trên đường tìm đất sống.

    Trong thời buổi loạn lạc, đầy biến động, phần lớn các hộ gia đình đều ly tán, ai đã sinh con rồi, đều đem gửi lại người thân nuôi nấng để ra đi vì sinh kế hoặc theo các phong trào nghĩa binh nổi dậy chống thực dân. Ngài là một trong số hoàn cảnh đó. Vì thế nguồn gốc về song thân của Ngài, cho đến nay vẫn chưa có sử liệu nào ghi chép lại được.

    Cơ duyên tu tập

    Do hoàn cảnh kể trên, tuổi thơ của Ngài đã sớm khó khăn, vất vả khi chịu sự xa cách thiếu vắng sự chăm sóc của cha mẹ. Nhưng Ngài vẫn được những người thân bảo hộ, cho học hành tử tế và có phần ưu đãi, bởi tự thân Ngài đã sớm biểu lộ đức tính cần cù, chăm chỉ, có sự nhẫn nại và uyên bác trong tri thức.

    Ngay từ nhỏ, Ngài đã bộc lộ lòng hảo cảm với Phật pháp, ngoài những lúc làm việc phụ giúp người thân và học hành, Ngài hay theo các bạn đồng lứa đến chùa lễ Phật, nghe Pháp.

    Vào năm Quý Dậu (1873), khi vừa bảy tuổi, Ngài đã tới chùa Giác Viên (Chợ Lớn) xin được thọ Pháp xuất gia với Tổ Hoằng Ân – Minh Khiêm. Trong thời gian tu học nơi dây, Ngài được các bạn đồng môn Pháp lữ hết lòng giúp đỡ và khen ngợi. Tổ Hoằng Ân cũng rất hài lòng về người đệ tử mới của mình.

    Ngoài sự trợ duyên, tận tình chỉ bảo của Thầy nghiệp Sư, Ngài đã tự sách tấn mình trong việc học hành, tu tập bằng tất cả tư chất thông minh vốn có nên đạt được kết quả tốt đẹp.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Năm Quý Mão (1903), Hòa thượng Chơn Không – Như Nhu (huynh đệ với Tổ Như Phòng) viên tịch, chùa Giác Viên khi ấy không có người trông coi, trụ trì. Vốn Hòa thượng Như Phòng có tư chất thông minh, lại chăm chỉ tu hành, chuyên tâm đạo hạnh, Tổ Hoằng Ân liền giao cho Ngài trách nhiệm trụ trì, hoằng dương Phật pháp tại chùa Giác Viên.

    Sau khi đảm nhiệm, Ngài đã đặt cách các chức sự trong chùa hợp lý hơn, đồng thời hiệp lực cùng chư vị huynh đệ trùng tu chùa, lúc này đã xuống cấp, đang trong tình trạng hư hoại nặng. Những việc làm kịp thời, đúng lúc, đúng thời điểm của Ngài, đã nhận được sự tán trợ nhiệt thành của chư vị Tăng ni cùng Phật tử thập phương.

    Trong thời gian trụ trì, Ngài càng tinh tấn hơn trong nếp sống đạo hạnh, bền chí tu học và giữ gìn giới luật nghiêm tịnh, làm gương soi sáng cho Tăng chúng noi theo. Lúc này, dưới sự quan tâm trực tiếp của Ngài, sinh hoạt thường nhật, oai nghi tế hạnh trong chùa đi vào nề nếp.

    Ngoài việc xây dựng, tu bổ, chăm lo chùa Giác Viên, Ngài còn quan tâm, đóng góp nhiều công sức trong việc trùng tu lần thứ hai ngôi chùa Giác Lâm vào những năm 1900 – 1909. Do đó, trong lịch sử xây dựng và bảo tồn hai Tổ đình quan trọng này, Ngài là một trong những vị đầy năng động, nhiệt thành có công rất lớn.

    Trong năm Nhâm Tuất (1922), tại giới đàn quan trọng được mở ra tại chùa Giác Lâm nhằm truyền trao giới Pháp cho Tăng sĩ khắp nơi. Ngài được suy tôn làm Hòa thượng Đàn đầu.

    Với những năm kế tiếp, Ngài được cung thỉnh vào các hàng Tôn Chứng, A Xà Lê, Giáo Thọ v.v. ở những giới đàn khác, do oai đức vang dội khắp nơi, Ngài cũng ý thức được sự nghiệp, đạo hạnh của mình là tấm gương để gây dựng những tầng lớp Tăng tài kế thừa, phát huy, hoằng dương Phật pháp là nhiệm vụ hàng đầu ở buổi bình minh của phong trào chấn hưng Phật giáo.

    Ngài luôn dặn lòng, khuyến hóa chúng Tăng phải giữ vững đạo tâm, sẵn sàng cứu dân giúp nước, nhưng chớ để thời cuộc lôi kéo mà quên bổn phận của một hành giả: Cứu cánh giải thoát.

    Đức độ, lòng thiết tha với Đạo với đời, nơi Ngài luôn chan hòa và vững chắc và là một trong rất ít Tăng sĩ xuất gia từ rất sớm. Do đó hành trạng của Ngài như bông hoa bừng nở, tỏa hương. Đồng thời cũng nhờ công đức hoằng hóa của Ngài mà nếp sống theo tinh thần Phật giáo có mặt mọi nơi trong xã hội.

    Trên tạp chí “Kim Thi Tập”, đã có đôi lời ca ngợi về đức độ và việc làm của Ngài: “Ông Hoằng Nghĩa thường đêm tụng Pháp Hoa kinh, thập phương thiện tín người người đều yêu mến, cho nên lúc trùng tu chùa Giác Lâm, thiên hạ hỷ cúng tới bạc muôn, cũng là nhờ có Phật ân phổ chiếu, đáng tặng đáng khen…”

    Trong số các Tăng sĩ đệ tử tài ba lỗi lạc của Ngài, được biết đến nhiều sau này như Ngài Hồng Hưng – Thạnh Đạo (trụ trì chùa Giác Lâm từ năm 1910 – 1949), Ngài Hồng Long – Thiện Phước và Hồng Từ – Tuệ Nhơn (cũng ở chùa Giác Viên).

    Một Tăng sĩ tài ba, suốt cả một cuộc đời đóng góp nhiều cho đạo pháp như Ngài, luôn là kim chỉ nam cho không ít các bậc thức giả sau này. Khi cao trào chấn hưng Phật giáo khởi sắc, thì những vị được đào tạo chính qui và trang bị học thuật sẵn từ bấy giờ chính là những nhân tố rất cần thiết cho đại cuộc. Ngài đã làm được việc đó, xứng đáng là hậu duệ thứ 39 chi phái Lâm Tế Bổn Ngươn. Và hai ngôi chùa Giác Lâm, Giác Viên nổi tiếng được biết đến nhờ những vị cao Tăng như thế.

    Thời kỳ viên tịch

    Khi cảm thấy những phước báu đưa đến, cũng là lúc công việc hoằng hóa đã đến hồi viên mãn. Không khi nào Ngài tỏ ra tự mãn hoặc tự hào về chính mình. Ngược lại, Ngài tỏ ra khiêm tốn, hòa ái với chung quanh. Đó được xem là pháp âm mà Ngài muốn truyền cho hậu thế.

    Cũng vậy qua những mẫu chuyện truyền khẩu trong chốn già lam, việc Ngài đi bộ từ chùa Giác Lâm đến Giác Viên và ngược lại, không hề màng đến các phương tiện di chuyển là ý khuyến hóa chúng Tăng trong chùa nên giữ hạnh kham nhẫn khiêm cung, cẩn trọng đối với tứ sự cúng dường của đàn việt và tình pháp hữu phải được hòa hợp. Đó là một trong những lộ trình đến Niết bàn giải thoát, đầy lòng vị tha.

    Năm Kỷ Tỵ (1929) nhằm ngày 23 tháng 11. Ngài đã an nhiên thị tịch tại chùa Giác Viên, thọ 63 tuổi.

    Tang lễ của Ngài được ghi lại rất chi tiết trong vài quyển sách xuất bản hai năm sau đó (1931) và cho biết có hơn một ngàn người đến thọ tang, tiễn đưa nhục thân Ngài vào bảo tháp.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995

    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline