Thân thế
Hòa thượng Sơn Vọng, pháp danh Visuddhi Paĩĩo (Thanh Tịnh Tuệ), sinh vào mồng 3 tháng 11 năm Bính Tuất 1886 (PL 2428), tại Phnô Phrem xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Lợi (nay là huyện Cầu Ngang), tỉnh Trà Vinh.
Ngài lớn lên trong một gia đình người Việt gốc Khmer, với thân phụ là ông Sơn Tân và thân mẫu là bà Sơn Thị Tích. Gia đình Ngài, như nhiều gia đình Khmer khác, mạnh mẽ in sâu đức tin Phật giáo, hành trì đoàn kết và kiên trì trong đạo đức Phật pháp. Ngay từ thuở nhỏ, Ngài đã tham gia sinh hoạt tín ngưỡng trong gia đình và tham gia các lễ hội truyền thống của cộng đồng, cũng như học hành tại ngôi chùa Khmer trong vùng.
Năm Kỷ Hợi (1899), khi Ngài mới 14 tuổi, Ngài được đưa đến chùa Bodhinàgàràma Raja Malla (chùa cũ) để học chữ Khmer. Thầy dạy của Ngài là Sư Keo, trụ trì chùa, người không chỉ truyền dạy kiến thức mà còn là người hướng dẫn sâu sắc về cuộc sống tu hành của người xuất gia. Từ đó, ngoài những buổi học chữ là chăm sóc , lân mẫn mật thiết. Nhờ đó ý niệm xuất gia cao đẹp đã hình thành nơi Ngài một cách vững chắc. Cũng từ ấy khái niệm tình yêu quê hương đất nước đã bắt đầu trổi dậy khi Ngài nhìn bầu trời mỗi chiều có cánh diều tuổi thơ của Ngài đang rộng mây tắm gió.
Cơ duyên tu hành
Năm Nhâm Dần (1902), khi Ngài đã 17 tuổi, ý thức về những khó khăn xã hội và tình yêu quê hương đã bắt đầu nảy mầm trong tâm hồn Ngài. Ngài nhìn thấy cảnh đời cơ cực, đói khổ của người dân Khmer, và lòng từ bi của Ngài được khơi dậy. Cuộc sống đầy những khó khăn, đôi khi phải cạnh tranh giành nhau từng bữa ăn, đã làm cho Ngài nhận thức sâu sắc về sự chấp nhận và nhân ái. Năm này, Sư Keo trụ trì chùa Jaya Satthàratana, nơi Ngài học chữ, buộc phải về chùa Jaya Satthàratana để trụ trì. Ngài liền nhanh chóng xin phép song thân rời khỏi chùa cũ để theo Sư Keo đến chùa mới và xin thọ giới xuất gia. Ngài được gửi đến tham học giáo lý với Sư Prak tại chùa Phướng. Sau một năm học, Ngài quay trở lại chùa cũ.
Năm Đinh Mùi (1907), khi Ngài 22 tuổi, Ngài đón nhận Tỳ Kheo giới tại chùa Bodhinàgàràma Ràja Malla (chùa cũ). Hòa thượng Tăng Phô làm thầy tế độ, Hòa thượng Keo chùa Jaya Satthàratana làm thầy tuyên ngôn, Hòa thượng Uôk chùa Bodhinàgà làm Thầy Amsàvanàcarva (Yết Ma), và Ngài được ban Pháp danh là Brahmasaro, có nghĩa là “Bờ Phạm Hạnh.”
Khi trở thành vị Tỳ Kheo, nhiệm vụ nặng nề nhất đối với Ngài là sách tấn và trau dồi kiến thức lý luận về Phật pháp. Vì vậy, Ngài quyết định ở lại chùa Chếc-Chrum (chùa Dòng Chuối) để tiếp tục học tập trong vòng bốn năm.
Năm 1910, Ngài đến học tại chùa Prèi-Chas thuộc tỉnh Battambang, Campuchia. Trong khoảng một năm tại đây, Ngài tập trung học Thiền Chỉ (Samatha Kammatthàna) với sư Chum.
Năm Tân Hợi (1911), 28 tuổi, sau thời gian học tập, Ngài trở về Trà Vinh. Ngài được 7 hạ lạp và được Tăng đoàn Sư Sãi đề cử trụ trì chùa Dòng Chuối (Jaya-Satthàratana).
Những đóng góp cho Phật giáo
Trong trách nhiệm trụ trì, Ngài không chỉ trùng tu nhiều công trình, mà còn phát động kế hoạch biến chùa thành một trung tâm đào tạo Sư Sãi với giáo trình riêng và quy củ. Sự ủng hộ từ Sư Sãi và cộng đồng Phật tử giúp mọi công việc diễn ra suôn sẻ hơn dự kiến. Nhờ sự hỗ trợ đó, Ngài đã thực hiện ước mơ thỉnh từ Campuchia bộ Tam Tạng Kinh Luật bằng tiếng Pàli-Khmer để dịch sang tiếng Việt, phục vụ công việc tu học cho Tăng sĩ Phật giáo Khmer Nam bộ. Tuy chỉ mới thỉnh được 35 quyển do điều kiện đi lại nhằm giữa lúc chiến tranh ác liệt, nhưng cũng tạo nên tiếng vang rất lớn thời bấy giờ, làm ích lợi lâu dài cho cộng đồng tu Phật.
Năm Ất Mão (1915), Ngài còn tham gia xây dựng giảng đường lớn, trang trí lại Bồ Đoàn và tượng Phật lớn tại chùa Tổ Ràjamala (Trà Vinh). Ngài cũng đóng góp vào việc trùng tu chùa Cakka ở xã Hiệp Hòa (huyện Cầu Ngang, Trà Vinh) và chùa Bình Phú (huyện Càn Long, tỉnh Cửu Long).
Năm Kỷ Mùi (1919), Ngài tập trung vào công tác từ thiện và xã hội, giúp nâng cao mức sống và tạo niềm tin trong cộng đồng Khmer Nam bộ. Ngài tham gia xây dựng đường sá, nhà ở cho người nghèo, hội trường và trường học phục vụ giáo dục trẻ em. Tại chùa Dòng Chuối (Jaya Satthàratana Chếc Chrum), Ngài còn xây một lò hỏa táng phục vụ tang chế theo truyền thống Phật giáo Nam Tông. Đây là thời kỳ mà Ngài tích cực đóng góp vào cộng đồng xã hội và hỗ trợ giáo dục cho đồng bào Khmer, trong đó giáo viên chủ yếu là những vị Sư Sãi.
Từ những năm Canh Ngọ (1930) đến năm Canh Dần (1950), Ngài tập trung chủ yếu vào công tác đào tạo Sư Sãi, khích lệ xây dựng các giảng đường rộng lớn tại các chùa trong vùng để giảng dạy tiếng Pàli. Một trong những trường sơ cấp Pàli được thành lập tại chùa Dòng Chuối, cùng với một giảng đường Pàli riêng cho các Sư bổn tự. Ngài cũng là một trong những vị Lục Cả trực tiếp tham gia giảng dạy.
Vì những đóng góp ý nghĩa của mình cho Đạo và Đời, Ngài được Hội Phật Giáo tỉnh Sóc Trăng trao tặng huy hiệu vinh quang. Ngài cũng nhận được sự tôn trọng từ Hoàng Thân Sihanouk và đức Tăng Hoàng Vương quốc Campuchia, được phong tặng huy hiệu và bằng khen vào năm Mậu Tý (1938). Danh xưng vị Tăng Hoàng của tỉnh Trà Vinh được trao cho Ngài, tượng trưng cho vị trí đầu tiên trong việc điều hành hoạt động Phật giáo toàn tỉnh.
Trong thời kỳ chính trị của Ngô Đình Diệm, khi chủ trương xây dựng ấp chiến lược được công bố, Bà con nông thôn phải đối mặt với hạn chế lớn về sinh sống. Chùa chiền bị phong tỏa và hủy hoại, và Sư Sãi phải rời khỏi nơi tu hành hoặc đối mặt với vu khống và bị gò ép. Ngài, với uy tín và đạo hạnh của mình, lên tiếng kêu gọi đấu tranh. Tuyến truyền thông của Ngài đã lan rộng đến khắp miền Tây Nam bộ.
Đặc biệt, vào ngày 14-9-1960, Ngài đích thân chỉ đạo cuộc biểu tình lớn nhất tỉnh Trà Vinh, quy tụ hầu hết Sư Sãi và Phật tử, đòi hỏi tôn trọng chùa chiền và ngăn chặn việc bắt buộc Sư Sãi tham gia quân dịch, đồng thời bảo vệ nông dân không bị ép rời bỏ ruộng vườn và các phương tiện sinh sống. Những yêu sách này đã được Ngài đạt được thành công.
Tuy nhiên, sau một tuần, vào ngày 20-9-1960, hơn hai mươi ngàn người Kinh và Khmer, kèm theo năm ngàn người từ thị xã Trà Vinh, đã tham gia biểu tình và bị đàn áp mạnh mẽ, dẫn đến hơn mười người thiệt mạng và hàng trăm người khác bị thương.
Trong quá trình chiến đấu chống lại áp bức của chế độ, Ngài đã giữ chức vụ Phó Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương MTGPMN Việt Nam ngay từ khi tổ chức này mới thành lập, là Phó Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới của miền Nam Việt Nam và Cố vấn Ủy Ban MTDTGP miền Tây Nam bộ.
Thời kỳ viên tịch
Năm Quý Mão (1963), mặc dù đang mang trọng bệnh, Nhưng vì sự cấp bách của Phật pháp, Ngài đã không ngần ngại vận động, kêu gọi Tăng tín đồ bảo vệ chùa chiền và làng ấp. Trong sự kiện đầy biến cố, giữa đường hành trình, Hòa thượng Sơn Vọng đã viên tịch khi mọi sự đang dồn dập xung quanh.
Ngày 5 tháng 3 năm 1963, Ngài trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 78 tuổi. Vì hoàn cảnh chiến tranh, Ngài được tạm chôn cất tại nơi Ngài viên tịch. Cho đến năm Tân Dậu (1981), nhân lễ Chôl Ch-năm Th-mây, môn đồ pháp quyến đã đưa Ngài về hỏa táng theo truyền thống Phật giáo Khmer Nam bộ và tôn thờ tại chùa Dòng Chuối.
Với những đóng góp lớn lao cho đạo và đời, khi hình thể đã trở về với tứ đại, Hòa thượng Sơn Vọng vẫn sống mãi trong tâm hồn của cộng đồng Khmer Nam bộ. Hình bóng của Ngài in sâu vào trái tim, như một tia sáng an lành soi tỏa trên bầu trời đêm, làm an dưỡng cho một vùng đất quê hương truyền thống của Phật giáo.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995