Hòa thượng Tăng Nê (Nệ) (1899 – 1965)

Hòa thượng Tăng Nê (Nệ) (1899 – 1965)
16:34 - 19.05.2024
Hòa thượng Tăng Nê, sinh vào năm Kỷ Hợi (1889) tại Kinh Hai, thuộc ấp Vĩnh Thạnh, xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang), là một con người bản địa gốc Khmer.

    Thân thế

    Hòa thượng Tăng Nê, sinh vào năm Kỷ Hợi (1889) tại Kinh Hai, thuộc ấp Vĩnh Thạnh, xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang), là một con người bản địa gốc Khmer.

    Ngài sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, đã định cư ở địa phương từ rất sớm, trước cả khi người Việt và người Hoa đến. Gia đình Ngài, người tuân thủ đạo Phật, sống hiền hòa và chăm chỉ, đã tham gia cùng các cộng đồng khác trong việc khai hoang mở đất tại Vĩnh Phong.

    Phụ thân của Ngài là ông Danh Thô, tá điền của điền chủ Trần Văn Học. Ông Danh Thô lao động cật lực trên 1 mẫu 6 ruộng lúa, nộp 40 giạ mỗi kỳ vụ, điều này đưa gia đình vào tình cảnh nghèo đói và khó khăn. Tình cảnh khốn khó của gia đình đã được chuẩn bị từ trước khi Ngài ra đời, và phụ thân Ngài với cảnh gà trống nuôi con, đã phải lao động vất vả, thậm chí làm lụng nhiều hơn để đảm bảo Ngài có một tuổi thơ không thiếu thốn như nhiều đứa trẻ cùng lứa tuổi.

    Năm 1898, một năm trước khi Ngài ra đời, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra lệnh nạo vét kênh Núi Sập (Thoại Hà) nối Long Xuyên qua Rạch Giá. Tuy ông vua này đã xem thường các Tỉnh trưởng thuộc địa và gây phản đối mạnh mẽ từ cộng đồng dân chúng, nhưng hậu quả của quyết định này là giành thuế á phiện, quyền sử dụng nông nô, và sở hữu các kênh đào, làm cho bà con nông dân đang khó khăn trở nên càng nghèo đói.

    Cơ duyên tu hành

    Những khó khăn và gian khổ đã làm nền tảng cho tuổi thơ của Ngài. Cũng giống như các gia đình Khmer khác, gia đình Ngài không có điều kiện kinh tế, nhưng họ vẫn đề cao giá trị tinh thần của Phật tử, thường xuyên tham gia chùa lễ Phật, lắng nghe giảng giáo lý và học chữ. Khi duyên lành đã đến, Ngài quyết định xuất gia vào năm Giáp Dần (1914) khi mới 15 tuổi.

    Năm Bính Thìn (1916), Ngài thọ giới Sa Di tại chùa Chắc Băng, xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Rạch Giá. Ngài tiếp tục tu học tại chùa Chắc Băng cho đến năm Tân Dậu 1921, khi 22 tuổi, Ngài thọ giới Cụ Túc. Hòa thượng Tăng Hô, người Bổn sư đầu tiên đã chăm sóc Ngài từ khi xuất gia, không chỉ giúp Ngài nâng cao trình độ tri thức mà còn dạy kỹ chữ Khmer một cách cẩn thận.

    Ngài, vừa hành thiền, vừa đảm nhận vai trò thị giả cho Hòa thượng, đã thu hút sự chú ý của Hòa thượng Tăng Hô bởi tinh thần xuất sắc và sự tin tưởng đặc biệt của mình. Hòa thượng giao phó cho Ngài nhiều công việc quan trọng.

    Hòa thượng Tăng Hô đã nhận thức được khả năng của Ngài trong việc hiểu biết về những biến động trong xã hội, cả về quá khứ và hiện tại. Vì vậy, Hòa thượng không chỉ truyền dạy tinh hoa Phật học cho Ngài mà còn truyền đạt tinh thần yêu nước và các nguyên tắc cao cả của Phật giáo. Hòa thượng đã đặc biệt chú trọng đến việc truyền đạt tinh thần yêu nước và đồng lòng với những công việc mà Hòa thượng đang hướng dẫn cho cách mạng.

    Trước khi Hòa thượng Tăng Hô tịch, Ngài đã tham gia chặt chẽ và hỗ trợ Hòa thượng trong nhiều nhiệm vụ quan trọng. Trong thời gian này, Hòa thượng Tăng Hô giữ chức Phó Chủ Tịch Mặt Trận Việt Nam Nam bộ và là Chủ tịch Hội đồng Kỷ luật Sư Sãi Nam bộ.

    Những đóng góp cho kháng chiến và Phật giáo

    Khi Hòa thượng Tăng Hô tịch, Ngài lập tức nhận lấy và tiếp tục thực hiện hai vị trí quan trọng này. Điều này đã tạo ra tiếng vang lớn và đầu tư được lòng tin của cộng đồng Phật giáo Khmer Nam bộ.

    Ngài không chỉ tích cực tham gia vào hoạt động cách mạng mà còn giữ vững truyền thống yêu nước và tinh thần cao quý của giáo pháp. Trong công cuộc hoằng hóa, Ngài mở rộng kiến thức Phật học cho cư sĩ và Phật tử.

    Bằng cách truyền thừa tông chỉ, Ngài đã hướng dẫn nhiều môn đồ và được tôn trọng và kính mộ. Sự thành công của Ngài không chỉ được đánh giá bởi Tăng chúng và tín đồ mà còn là biểu mẫu cho hành trình thiện tu và phục vụ dân tộc.

    Trong những năm 1960, khi tình hình trở nên nguy cấp với âm mưu thực dân mới và việc áp đặt khủng bố, Ngài chuyển sang một giai đoạn mới trong cuộc đấu tranh cho dân tộc. Để bảo toàn và thực hiện lý tưởng giải thoát, Ngài buộc phải di chuyển chỗ ở liên tục, tránh sự theo dõi của chính quyền miền Nam.

    Thời kỳ viên tịch

    Từ Cos Đôn rồi đến Khna roông… ý chí và tinh thần yêu nước thương người nơi Ngài vẫn thủy chung trong tấm áo Cà Sa đi theo con đường từ bi của đức Phật và sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.

    Năm Ất Tỵ 1965, Hòa thượng Tăng Nê đã tịch tại chùa Kinh Hai, thuộc huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang. Trụ thế 66 tuổi, trên 50 năm cống hiến cho đạo bằng hình bóng xuất gia.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995

    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline