Hòa thượng Tế Xuyên – Thích Doãn Hài (1874 – 1958)

Hòa thượng Tế Xuyên – Thích Doãn Hài (1874 – 1958)
15:26 - 12.05.2024
Hòa thượng, thế danh Dương Văn Hiển, pháp danh Thông Hiển, hiệu Doãn Hài, lịch trình đời sinh vào năm Giáp Tuất (1874) tại làng Mai Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Hà, nơi nổi tiếng với nền văn hóa Nho giáo.

    Thân thế

    Hòa thượng, thế danh Dương Văn Hiển, pháp danh Thông Hiển, hiệu Doãn Hài, lịch trình đời sinh vào năm Giáp Tuất (1874) tại làng Mai Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Hà, nơi nổi tiếng với nền văn hóa Nho giáo.

    Gia đình ông, là một gia đình thanh bạch theo đạo Nho, đặt ấn khắc tốt lành trên thôn quê. Ngài bắt đầu theo đuổi nghiệp văn chương từ khi còn rất nhỏ, thường xuyên tham gia các buổi học tại cổng Khổng Trình.

    Cơ duyên tu hành

    Đến năm 15 tuổi (1889), một buổi thảo luận với thầy và đồng môn đàm đạo nhân tình thế sự, nhân đề cập, tán thán về công đức và đạo hạnh của Sư Tổ chùa Bảo Khám, làng Tế Xuyên, hạt giống Bồ Đề tâm của Ngài đã nảy mình tâm hồn tu đạo của Ngài. Ngài đã quyết định xuất gia đầu Phật và xin nhận lễ Thọ giới từ Sư Tổ chùa Bảo Khám. Với lòng chân thành và sự cần mẫn siêng năng, Ngài nhanh chóng thu hút lòng quý mến của đồng đạo và đạt được sự kính trọng.

    Năm 16 tuổi, Ngài trải qua nghi lễ Thọ giới Sa Di, những tưởng con đường tu học của mình có cơ thăng tiến dưới sự hướng dẫn của Tổ Sư. Không ngờ ngày rằm tháng 2 năm Canh Dần (1891) nghiệp sư viên tịch, sự ra đi đột ngột của nghiệp sư khiến Ngài lạc lõng ở tuổi 17. May mắn thay, Huynh trưởng của Ngài, Hòa thượng Phổ Tụ, là một Thượng tọa có uyên thâm, đã trở thành người hướng dẫn Ngài trên đường tu hành.

    Năm Quý Tỵ (1893), Ngài bước qua tuổi 20 và trải qua nghi lễ thọ Cụ Túc giới tại Đại giới đàn, nơi được tổ chức ở bản tự. Trong khoảng thời gian sau đó, Ngài được sư huynh gửi lên chùa Bồ Đề tại Gia Lâm, ở đó Ngài đảm nhận vai trò thị giả Sư Tổ trú trì dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Nguyên Biểu. Mục tiêu của Ngài là nhanh chóng hoàn thiện bản thân thông qua tu học.

    Năm Bính Ngọ (1906), khi Sư Tổ Bồ Đề viên tịch, Ngài tiếp tục hành trình tu học bằng cách đến Tổ đình Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang để tham gia giảng dạy và học hỏi từ Hòa thượng Thanh Hanh. Sau những trải nghiệm học thuật tại đây, Ngài quay trở về quê nhà và đảm nhiệm trách nhiệm trú trì chùa Tế Cát, nơi Ngài chú trọng vào việc giáo hóa cộng đồng, đồng thời làm nhiệm vụ trợ giáo cho Tổ Phổ Tụ truyền pháp và giữ gìn kỷ cương của Tổ đình Tế Xuyên.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Năm Bính Dần (1926), Hòa thượng Phổ Tụ từ giã thế gian, và sơn môn đã suy tôn Ngài lên vị trí đệ tứ của Tổ Tế Xuyên Bảo Khám Tự. Trong vai trò này, Ngài tiếp tục công việc hoằng pháp lợi sinh và thực hiện trách nhiệm san khắc kinh điển, luật tạng, như bản Thiền Lâm Bảo Huấn, Tăng Hộ, Tâm Tạng, Địa Tạng mà Tổ đệ tam đã bắt đầu.

    Ngài trở thành thạch trụ đống lương cho sơn môn, được tôn kính và ngưỡng mộ. Đồng thời, Ngài cũng thường xuyên được tôn vinh với ngôi chủ Hạ trong các sự kiện quan trọng tại Tổ đình, cũng như trong các khóa an cư, và thường đảm nhận vai trò Chánh chủ giảng trong các buổi giảng. Trong các trai hội lớn, Ngài thường được cung thỉnh thượng tòa Chứng minh.

    Năm 1934, khi phong trào chấn hưng Phật giáo bùng nổ tại Bắc Kỳ, Ngài, mặc dù tuổi đã cao và sức yếu, không chỉ chủ động tham gia mà còn động viên và vận động Tăng Ni, Phật tử tham gia tích cực. Ngài lan tỏa tinh thần hăng say và sự cam kết cho sự hồi sinh Phật giáo.

    Ngài còn tham gia vào việc thành lập và phát hành báo Đuốc Tuệ, cơ quan phổ biến Phật pháp, và nhanh chóng trở thành Phó Chủ bút sau khi Hòa thượng Trung Thứ nghỉ chức. Ngài được Hội mời làm Phó Chủ bút, phụ tá cho Hòa thượng Trung Thứ đương nhiệm Chủ bút.

    Năm 1936, Hòa thượng Chủ bút viên tịch, Ngài tiếp nối duy trì tờ báo, lãnh trách nhiệm Chủ bút, quy tụ được rất đông chư Tôn đức Tăng Ni và cư sĩ, nhà văn viết bài cho tờ báo, góp nhiều công sức cho việc hoằng dương chánh pháp, xây dựng nền văn hóa dân tộc.

    Trong thời gian làm Chủ bút của báo Đuốc Tuệ, Ngài không chỉ giữ chức Chánh trú trì tại chùa Quán Sứ mà còn giữ vị trí này khi Hội Bắc Kỳ Phật Giáo ra đời. Năm 1951, Ngài được đại hội các phái đoàn Phật Giáo ba miền tập trung tại chùa Từ Đàm – Huế, thực hiện nguyện vọng chung của Tăng Ni và Phật tử toàn quốc là thống nhất Phật giáo cung thỉnh Ngài làm Chứng minh Đạo sư cho Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.

    Năm 1952, Ngài dẫn đầu sơn môn trong quá trình trùng tu Tổ đình Tế Xuyên thành một tòng lâm khang trang, qui mô như ngày nay vẫn còn. Tiếp đó Ngài cho trùng tu các chùa ở Tế Cát, Văn Xá, Nam Xá… là những ngôi Tam Bảo mà Ngài đã có thời làm trú trì.

    Thời kỳ viên tịch

    Ngày 17 tháng 11 năm Mậu Tuất (1958) pháp thể khương an, tinh thần minh mẫn, Hòa thượng Tế Xuyên vẫn cùng đệ tử và tín đồ mừng lễ vía Đức Phật A Di Đà. Qua sáng hôm sau, Ngài ra trai đường niệm thực, chứng cháo sáng, thụ trai xong, Ngài an nhiên tĩnh tọa vãng sanh Tây phương, hưởng thọ 85 tuổi đời, 64 hạ lạp.

    Trong suốt cuộc đời, Ngài luôn hoan hỷ dìu dắt Tăng Ni và Phật tử trên con đường tu học. Ngài luôn thực hiện hạnh từ bi hỉ xả, tận tụy vì đạo pháp và làm rạng rỡ tông phong lịch đại Tổ sư Tế Xuyên nói riêng, Phật giáo nước nhà nói chung.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline