Thân thế
Hòa Thượng thế danh Nguyễn Văn Kim, Pháp danh Như Kim, Pháp hiệu Bửu Chung, sinh năm Tân Tỵ (1881) tại Rạch Cái Đầm, xã Hiệp Xương, huyện Tân Châu, tỉnh Long Xuyên (nay là An Giang), thuộc dòng dõi của cụ ông Chánh bái Nguyễn Văn Phước và cụ bà Lê Thị Dậu.
Cơ duyên tu hành
Khi còn là một thiếu niên, Ngài được song thân cho xuất gia tại chùa Bửu Lâm, Rạch Cái Bèo, xã Bình Hàng Trung, huyện Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong (nay là tỉnh Đồng Tháp), dưới sự hướng dẫn của Tổ Minh Thông – Hải Huệ, và được ban pháp hiệu Bửu Sơn. Dù vóc dáng nhỏ tuổi và ốm yếu, Ngài được giao trách nhiệm hương đăng trong chùa do lòng từ bi của Tổ.
Tổ Minh Thông – Hải Huệ nổi tiếng với việc cất chùa ở mọi nơi mà Tổ tới, dù chỉ là mái tranh vách đất. Khi cất chùa, Tổ đã giao trách nhiệm trú trì cho các đệ tử, nhưng do đa phần đệ tử xuất gia quá sớm, nhiều người chưa có cơ hội tu học. Để khắc phục tình hình này, Yết Ma Cả Như Khả – Chân Truyền, trưởng tử của Tổ, đã đề xuất gửi 5 Sa Di, trong đó có hai anh em ruột Bửu Sơn, Bửu Phước, Bửu Quang và Bửu Tín, từ chùa Khải Phước ở Sài Gòn (đường Bà Hom, xã Phú Lâm) lên để học đạo với Tổ Minh Hòa – Hoan Hỷ. Điều này đã dẫn đến việc Pháp hiệu của Ngài được đổi thành Bửu Chung.
Tuy nhiên, sau ba năm, vì bệnh tật, Ngài buộc phải từ giả Bổn Sư và học chúng. Ngài quyết định về Nha Mân ở Sa Đéc để dưỡng bệnh và cầu y chỉ với Tổ Phổ Minh tại chùa Hội Phước. Dù bận rộn với việc hướng dẫn đạo và hương đăng, Ngài vẫn kiên trì thực hiện trách nhiệm của mình. Được một thời gian, Ngài xin phép Tổ Phổ Minh để thăm Yết Ma Cả Như Khả – Chân Truyền tại Lấp Vò và giải thích lý do Ngài rời khỏi chùa Long Thạnh để quay về chùa Hội Phước. Yết Ma Như Khả dạy Ngài rằng: “Nếu muốn ở yên trong chúng và sau thành tựu sự nghiệp tu học thì phải nhớ lời dạy của Thiền Sư Đại Huệ:
Cung người chớ cầm
Ngựa người đừng cưỡi
Việc người đừng biết
Thường tự biết quấy để sửa.
Ngài thành kính thụ giáo và lui về.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm Tân Sửu (1901), Hòa Thượng thọ giới Cụ túc và nhận trách nhiệm làm trụ trì chùa Thiền Lâm ở Nha Mân. Năm Ất Tỵ (1905), Ngài tiếp tục được mời làm trụ trì chùa Phước Long tại Rạch Ông Yên, cũng thuộc Nha Mân. Trong vòng bốn năm, năm Kỷ Dậu (1909), Ngài dành thời gian lo trùng tu chùa, mở rộng Tăng xá và thành lập trường gia giáo. Các Tăng chúng từ khắp nơi đến tu học, tạo nên một cộng đồng đông đảo.
Trong số đệ tử của Ngài, có những người sau này trở thành những trụ cột quan trọng của Phật giáo ở các tỉnh miền Tây. Hòa Thượng Thích Thành Chí trụ trì chùa Phước Ân ở Rạch Cai Bường, Hòa Thượng Thích Thiện Tài, viện chủ chùa Bửu Lâm ở Rạch Cái Bèo, và Hòa Thượng Thích Huệ Từ, trú trì chùa Phước Long ở Rạch Ông Yên, chứng minh đạo sư của Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Đồng Tháp. Hòa Thượng Thích Phước Minh, Trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Cần Thơ, cũng là một trong những đệ tử nổi bật của Ngài.
Ngài được biết đến như một Pháp Sư danh tiếng, đã được Tổ Phi Lai – Chí Thiền mời thuyết giảng tại chùa Phi Lai trong Đại Trai đàn về “Pháp đếm hơi nhiếp tâm niệm Phật tam muội.” Bài pháp này đã được ghi lại thành sách và lưu trữ tại chùa Phi Lai, Châu Đốc.
Trong cuộc sống tu hành, Hòa Thượng luôn chủ trương tham gia lao động kinh tế để chùa có thể tự cung cấp đủ lương thực. Ngài nhận thức rằng ruộng đất của chùa nếu để nguyên là ruộng gò, sẽ năng suất thấp. Do đó, Ngài đã tiến hành cải tạo đất, thậm chí sản xuất gạch ngói để bán, từ đó hạ sâu ruộng và cấy lúa hai vụ mỗi năm, tạo ra một kết quả khả quan. Gạch ngói mang thương hiệu Bửu Tân Long của chùa đã trở nên nổi tiếng và được tiêu thụ rộng rãi, kể cả tại Sài Gòn.
Tuy nhiên, Hòa Thượng coi đó chỉ là phương tiện hỗ trợ, trong khi, tu học mới là điều căn bản. Do đó, sau khi đã đạt được mục tiêu cải tạo ruộng cho chùa, Ngài đã giao lại công việc làm gạch cho bổn đạo và tập trung vào tu hành, dìu dắt đệ tử. Tháng giêng năm Nhâm Thân (1932), Ngài tiếp tục trùng tu chùa, tạo nên một không gian trang trí và phụng trì Tam Bảo.
Thời kỳ kháng chiến chống thực dân
Ngài không chỉ là một vị Thánh sư uyên bác, mà còn là một nhà Sư yêu nước, có sự đóng góp to lớn trong các hoạt động chống Pháp. Ngài thậm chí từng bị bắt giam tại bót Thị Đinh trong cuộc tổ chức Thiên Địa Hội. Nhờ trí tuệ khôn khéo và sự mạnh mẽ, Ngài nhanh chóng được trả tự do. Người em của Ngài, ông Sáu Phụng, cũng phải đối mặt với đày ra Côn Đảo trong giai đoạn khó khăn.
Sau Cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, khi Ngài ủng hộ phong trào Thanh niên Tiền phong, thế lực Nhật bị lật đổ, Ngài đã đóng góp tích cực vào sự kiện này. Khi thực dân Pháp quay lại và tăng cường áp đặt ở Nam bộ, Ngài đã đưa ra một sáng kiến thông minh để giúp đỡ Cách mạng. Ngài xây dựng một cái hộc vuông “đựng lúa của chùa” với hai lớp vách, tạo điều kiện để khi quân Pháp đến, Cán bộ cách mạng có thể trốn vào đó, trong khi Ngài tự mình mắc võng nằm xem kinh. Điều này giúp chùa tránh khỏi sự tò mò của quân Pháp và bảo vệ cán bộ cách mạng.
Ngoài ra, Ngài không chỉ chăm sóc linh tâm mà còn thể hiện lòng từ bi và giúp đỡ nhân dân bằng cách xây dựng nhà dưỡng lão và lập nghĩa trang cho những người cô thế, người già và bệnh nhân không người thân chăm sóc. Cuộc đời của Ngài là một hành trình đầy lòng nhân ái và lòng từ bi, mang lại hạnh phúc cho những người xung quanh.
Thời kỳ viên tịch
Cuối cùng, ngày 14 tháng 4 năm Đinh Hợi (tức ngày 2-6-1947), sau khi vừa hoàn thành công việc linh thiêng khuya, Ngài đang nằm trên võng, tay cầm quyển kinh, nhìn quanh tứ phương với sự bình an và an nhiên. Ngài nhẹ nhàng niệm “A Di Đà Phật Vô Lượng Y Vương” rồi nhắm mắt xuôi tay thị tịch, hưởng thọ 66 tuổi đời, 46 năm lập chiếu.
Các dịch phẩm của Ngài
- Đốn ngộ nhập đạo yếu môn.
- Vạn pháp qui tâm lục.
- Phật học dị giải….
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995