Hòa thượng Thích Chánh Hậu (1852 – 1923)

Hòa thượng Thích Chánh Hậu (1852 – 1923)
23:40 - 19.05.2024
Hòa thượng Thích Chánh Hậu, sinh năm 1852, có thế danh là Trà Xuân Tồn, gốc người Minh Hương, tại làng Điều Hòa, tỉnh Định Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang.

    Thân thế

    Hòa thượng Thích Chánh Hậu, sinh năm 1852, có thế danh là Trà Xuân Tồn, gốc người Minh Hương, tại làng Điều Hòa, tỉnh Định Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang.

    Ngài xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc. Thân phụ Ngài làm chức Tri Phủ, nhưng khi Ngài lớn lên thì gia đình gặp lúc suy vi vì thực dân Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta. Tuy nhiên Ngài vẫn được hưởng nền giáo dục chu đáo từ thuở nhỏ.

    Cơ duyên tu tập

    Năm 1870, khi 18 tuổi, Ngài vâng lệnh song thân kết hôn với cô Phan Thị Lê, con quan Thủ Hạp Định Tường người cùng làng. Tưởng đâu khi cưới người vợ trẻ đẹp, đoan trang, con quan, cuộc sống đã yên bề gia thất, sẽ sống hạnh phúc đời thường giản dị.

    Không ngờ năm Ngài 22 tuổi (1874), song thân đều qua đời, lại gặp lúc thời cuộc đang buổi rối ren, trong tâm khảm Ngài cảm thấu Luật “sanh lão bệnh tử” ở kiếp người và lẽ “vô thường” của tạo vật, bèn giao gia tài, cơ nghiệp lại cho người anh, rồi khuyên bảo vợ về bên gia đình cha mẹ ruột ở.

    Không lâu sau, Ngài cất một cái am đặt tên là “Thiền Lâm Tiểu Viện”, tự tu hành để báo hiếu cha mẹ. Ngài thực hiện đầu đà khổ hạnh nhất nhật chay trường, nằm đất khoảng hai năm, người ngoài chưa rõ Ngài tu theo pháp môn nào, vì họ không thấy có bổn sư hướng dẫn.

    Về phần, vợ của Ngài, bà Phan Thị Lê, lúc đầu trở về nhà cha mẹ, cùng chồng tuy không phải tử biệt nhưng thực sự đã sinh ly. Dần dần nhờ bạn bè khuyên giải, bà vơi được nỗi đau buồn cũng xin xuất gia đầu Phật tìm con đường giải thoát. (Sau thành Tỳ kheo ni hiệu Diệu Tín, được Ngài An Lạc trụ trì chùa Vĩnh Tràng thờ ở chùa này).

    Cơ duyên hội tụ, một hôm có vị Hòa thượng Huỳnh Chơn Giác ở chùa Bửu Hưng (Sa Đéc) về Tổ đình Bửu Lâm (Mỹ Tho) nghe chuyện về Ngài, Hòa thượng bèn rủ Yết Ma Nguyễn Huyền Dương cùng tới viếng thăm Thiền Lâm Tiểu Viện. Sau khi trò chuyện trao đổi, thấy Ngài dốc lòng tu tập, nhưng quá trình tu tập chưa đúng hướng, hai vị lấy lời giảng giải và thuyết phục Ngài nên đi theo con đường Chánh pháp.

    Theo lời khuyên của hai vị chân tu, năm 24 tuổi (1876) Ngài đến Tổ đình Bửu Lâm đảnh lễ quy y thọ giới với Hòa thượng Minh Phước (tức Nguyên Phước), hiệu Tư Trung. Hòa thượng Tư Trung cũng là người Minh Hương, nên ban cho Ngài pháp danh Quảng  Ân, pháp hiệu Chánh Hậu (Theo một dòng kệ phái Lâm Tế phổ biến trong giới Hoa kiều).

    Năm 1879, khi Ngài 27 tuổi,  được Hòa thượng Bổn sư ban cho bài kệ truyền thừa như sau:

    Tùng lai tiền niệm sự kinh dinh
    Lũy niên dũ chướng dũ niệm tình

    “Hữu vi” thị pháp tâm bất liễu
    Đạt đắc “vô vi”pháp thậm “minh”.

    Tạm dịch:

    Dò theo nghĩ lại chuyện kinh dinh
    Năm thâm, chướng lắp, lại thêm tình

    “Hữu vi” là pháp tâm nào được
    Đạt được “vô vi”pháp thật “minh”.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Năm 1880, Bổn sư cử Ngài làm Thủ tọa chùa Sắc Tứ Linh Thứu ở gần Mỹ Tho, nơi đây là một danh lam cổ tự có trước thời Gia Long.

    Vào mùa hè năm Bính Tuất (1886), Ngài an cư kiết hạ tại chùa Phước Hưng (Sa Đéc). Sau mùa an cư có giới đàn, Ngài được cử làm Yết ma A Xà Lê Sư. Năm Canh Dần (1890), ông Huyện Thụ là một cư sĩ thuần thành cùng các tín đồ đến chùa Sắc Tứ Linh Thứu thỉnh Ngài về trụ trì chùa Vĩnh Tràng, một ngôi chùa danh tiếng của đất Mỹ Tho đã bị hoang phế vì nạn binh lửa.

    Từ khi Ngài về làm trụ trì, chùa được phục hồi sinh khí như xưa, bổn đạo tới lui tấp nập. Năm Ất Mùi (1895) Ngài vận động xây lại chùa Vĩnh Tràng. Năm Kỷ Hợi (1889) Ngài trùng tu chùa Sắc Tứ Linh Thứu. Năm Giáp Thìn (1904) cơn bão lớn xảy ra vào hồi tháng ba đã làm hư hại nặng chùa Vĩnh Tràng.

    Từ năm Đinh Mùi (1907) đến năm Tân Hợi (1911) Ngài lại phải khuyến giáo tín đồ góp công góp của trùng tu lại chùa. Đáng chú ý trong lần trùng tu này, Ngài đã nhờ nghệ nhân điêu khắc tài hoa Tài Công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc toàn bộ tượng thờ trong chùa. Tới nay, chùa Vĩnh Tràng và Linh Thứu là hai danh lam, thắng tích bậc nhất tỉnh Tiền Giang, phần lớn nhờ vào công tôn tạo của Ngài.

    Cũng trong khoảng thời gian Hòa thượng Chánh Hậu trụ trì chùa Vĩnh Tràng thì trên khắp các nước Đông Á đang khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo. Từ Tích Lan, Ấn Độ, qua Thái Lan, Miến Điện, đến Nhật Bản, Trung Hoa, đâu đâu cũng có các trung tâm, các cơ quan ngôn luận, các vị tu sĩ và học giả hoạt động cho phong trào.

    Đặc biệt Trung Hoa là nước gần với Việt Nam, thường có sự giao lưu, trao đổi chặt chẽ các sách báo nói về việc chấn hưng Phật giáo, đã được các thương buôn Hoa kiều du nhập vào nước ta, nhất là ở Nam kỳ, phong trào chấn hưng Phật giáo ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến các vị Tôn túc, Hòa thượng có đạo tâm, hằng ưu tư về tiền đồ của Phật giáo Việt Nam.

    Hòa thượng vốn là người Minh Hương nên dễ dàng tiếp cận và quan hệ chặt chẽ với các bậc thức giả Hoa kiều, có dịp đọc các bài nói về phong trào chấn hưng Phật giáo của Thái Hư Pháp Sư bên Trung Hoa.

    Trong thâm tâm Ngài đã ươm mần hạt giống chấn hưng Phật giáo nước nhà, chỉ chờ cơ duyên là đem gieo rắc vun trồng. Tuy Ngài chưa khởi xướng lên được phong trào chấn hưng Phật giáo, nhưng việc hoằng dương Chánh pháp của Ngài đã đi đúng con đường chấn hưng Phật giáo trong thời điểm ấy.

    Ngài cho xây dựng, mở trường gia giáo để đào tạo Tăng tài, khi thì tự Ngài làm Pháp Sư giảng dạy, có khi Ngài thỉnh Hòa thượng Giác Hải. Đặc biệt Ngài còn mở lớp dạy chữ Nho, dạy bốc thuốc. Ngài còn thỉnh mời các bậc túc nho, phần nhiều là các chiến sĩ Văn Thân, Cần Vương lánh nạn an tích và các bậc lương y trong vùng đến dạy.

    Trong số có cụ Tòng Am Phan Văn Viễn cùng họ với cụ Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh đã được chùa Vĩnh Tràng nuôi ở hàng chục năm.

    Thời kỳ viên tịch

    Đáng buồn thay, công cuộc chấn hưng Phật giáo tại Nam kỳ đang trong thời kỳ manh nha, thai nghén thì vào ngày 29 tháng 7 năm Quý Hợi (1923), Hòa thượng Chánh Hậu viên tịch, thọ 72 tuổi với 47 hạ lạp.

    Sự nghiệp kiến lập, trùng tu tự viện, khai mở các lớp gia giáo đào tạo Tăng tài và quan tâm đến tiền đồ Phật giáo của Ngài, được xem là bước tiên phong chân chính, vinh quang như bình minh thế kỷ XX.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995

    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline