Hòa thượng Thích Huệ Đăng (1873 – 1953)

Hòa thượng Thích Huệ Đăng (1873 – 1953)
22:42 - 13.05.2024
Hòa thượng húy Thanh Kế, hiệu Huệ Đăng, thế danh Lê Quang Hòa, sinh năm Quý Dậu (1873) vào thời kỳ triều Tự Đức thứ 26, tại xã An Đông, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định), trong một gia đình theo lời dạy của Nho học.

    Thân thế

    Hòa thượng húy Thanh Kế, hiệu Huệ Đăng, thế danh Lê Quang Hòa, sinh năm Quý Dậu (1873) vào thời kỳ triều Tự Đức thứ 26, tại xã An Đông, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định), trong một gia đình theo lời dạy của Nho học.

    Cha Ngài, là một nhà Nho, đã đưa Ngài vào giáo lý từ khi Ngài chỉ mới năm tuổi. Ngài từ năm bảy tuổi, đã được gửi vào học trường huyện và bẩm chất thông minh, Ngài luôn đạt thành tích xuất sắc. Sau đó, Ngài được chuyển lên học trường tỉnh, nơi mà tài năng của Ngài sớm nở, cho thấy mai sau danh chiếm bảng vàng, làm rạng rỡ tông đường.

    Thế nhưng, vào ngày 22 tháng 5 năm Ất Dậu (1885), thủ đô Huế thất thủ, và vua Hàm Nghi phải rời cung. Trong bối cảnh này, kỳ thi Hương tại trường thi Bình Định diễn ra, và Ngài cùng các sĩ tử khác tham gia phong trào Cần Vương, chống lại thế lực Pháp để cứu nước. Ngài đặt bút tham gia phong trào này, là một trong những chiến sĩ nghĩa quân Bình Định dưới sự lãnh đạo của các ông Mai Xuân Thưởng, Bùi Điều.

    Cơ duyên tu hành

    Năm Đinh Hợi (1887), sau khi các lực lượng nghĩa quân Cần Vương bị Pháp đàn áp, và nhiều lãnh đạo nghĩa quân hy sinh, Ngài buộc phải lánh nạn đến vùng Bà Rịa. Ngài che giấu bản thân dưới áo thầy đồ để tránh mắt quân địch và đi tìm đồng minh. Ngài đã du hành khắp các tỉnh miền Đông, đến Gò Công, nhưng mọi nỗ lực đều thất bại do nền cai trị của người Pháp. Thất vọng, Ngài quay về Bà Rịa, tạm thời ẩn mình tại nhà của một người bạn cũ.

    Năm 1900, trong một buổi dạo chơi lên đồi Chân Tiên, trái tim Ngài rơi vào trạng thái bồi hồi vì hoàn cảnh xã hội. Tiếng chuông chùa trầm buồn giữa núi rừng hưng vắng làm cho trái tim Ngài rung động, đánh thức Ngài khỏi giấc mộng trần. Sáng hôm sau, Ngài đến chùa Long Hòa Cổ Tự để gặp Sư Tổ Hải Hội – Chánh Niệm. Từ phong thái và tâm hồn của Ngài, Sư Tổ dự đoán rằng đây là người có định mệnh lớn trong Phật pháp, và do đó, Sư Tổ khuyên Ngài xuất gia để tu học. Nghe lời dạy của Sư Tổ, Ngài suy nghĩ rằng ” Cứu quốc không xong, thôi đành cứu đời vậy “. Từ đó, Ngài xuất gia học đạo, Sư Tổ Hải Hội – Chánh Niệm truyền quy giới và trao cho Ngài pháp hiệu Thiện Thức. Ngài tích cực tu học, nhanh chóng nắm bắt các yếu tố của thiền lâm, được Thầy Tổ trân trọng và được huynh đệ kính trọng.

    Năm 1901, Hòa thượng được Bổn sư gửi đi để tham học với Tổ Trí Hải tại chùa Thiên Thai Sơn Thạch Tự, Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Tại đây, Ngài dành ba năm chăm chỉ tu tập, tỏ ra là người trí tuệ và uyên bác, hiểu biết sâu rộng về các kinh, luật, và luận.

    Sau thời gian nỗ lực này, Ngài quay về chùa Long Hòa. Thấy phẩm chất đạo đức và sự thông suốt tâm trí của Ngài, Tổ Hải Hội quyết định truyền trao Cụ Túc giới và phong cho Ngài pháp danh Thanh Kế, đạo hiệu Huệ Đăng.

    Năm đó, Ngài 30 tuổi (1903), được Tổ bổ nhiệm làm trụ trì chùa Kiên Linh trong hơn một năm. Ngay sau đó, Ngài chuyển đến chùa Phước Linh ở xã Tam Phước, tỉnh Bà Rịa, và cùng năm đó, Ngài nhập chúng tu học tại chùa Giác Viên dưới sự hướng dẫn của Tổ Hoằng Ân, người làm Chủ hương.

    Năm Ất Tỵ 1905, Tổ Hải Hội qua đời tại chùa Long Hòa. Ngài trở về và đảm nhận trách nhiệm xây dựng bảo tháp. Trong khoảng thời gian này, Ngài khám phá Thạch động trên núi Dinh (núi Dinh Cố) để làm nơi tĩnh tu. Ngài tận hưởng hai năm yên bình tại đây, thực hành thiền định và tụng kinh Pháp Hoa. Danh tiếng của Ngài lưu truyền, ngày càng có nhiều thiện tín từ mọi phương xa đến tìm kiếm sự giáo dục của Ngài. Người tu học theo Ngài cũng ngày càng gia tăng.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Năm 1908, 35 tuổi, Ngài được mời làm Pháp sư tại chùa Châu Viên ở Bà Rịa, khi chùa khai trường Kỳ, chư sơn mời Ngài lãnh chức Yết Ma, đồng thời làm Pháp sư trong giới đàn ấy.

    Năm 1910, Ngài vẫn ở Thạch động và đặt tên cho nơi đó là Động Thiên Thai. Do không gian hẹp và không phải là nơi lý tưởng, Ngài đã quyết định xây dựng chùa Thiên Thai ở chân núi Dinh để chúng sanh có điều kiện hơn truyền bá Phật pháp.

    Năm 1913, Ngài tổ chức giới đàn tại chùa Phước Linh, xã Tam Phước, Bà Rịa, được suy tôn là Đường đầu Hòa thượng.

    Năm 1915, 42 tuổi, Ngài trú trì chùa Bà Lang Lệ ở Cái Tàu Thượng (Sa Đéc) do Phật tử cúng dường. Tại đây, Pháp hạnh của Ngài được truyền bá rộng rãi, thu hút nhiều chư sơn và tín đồ đến học và quy y. Những trai đàn đại lễ, các chùa đều thỉnh Ngài làm Pháp sư hay Chứng minh, mặc dù phải đi xa, như năm 1918 Ngài làm Pháp sư tại trường Hương ở chùa Sắc Tứ Quan Âm Cổ Tự (Cà Mau), năm 1920 Ngài làm Chứng minh tại trường Hương ở chùa Phước Trường, v.v.

    Sau một thời gian đi hoằng hóa các tỉnh miền Nam, Hòa thượng cùng một đệ tử trở về và quyết định ẩn tu tại hang Mai trên núi Dinh, sống trong cảnh khắc khổ để tập trung vào tĩnh tu thiền định. Tuy nhiên, Ngài bị quan Tri phủ nghi ngờ về việc tổ chức chống Pháp, buộc Ngài phải rời bỏ hang Mai.

    Năm 1925, Hòa thượng dẫn theo đồ chúng lên sườn núi Dinh để khai hoang lập vườn trồng cây trái. Sau năm nỗ lực, vừa làm việc cực nhọc vừa tu hành, vườn cây vú sữa đã cho trái, cung cấp đủ thu nhập cho môn đồ trong quá trình tu tập.

    Năm 1929, Hòa thượng trùng tu lại Tổ đình Long Hòa, chùa có lịch sử lâu dài nhưng đã hư mục sau 200 năm xây dựng. Sau đó, vào năm 1933, theo thỉnh cầu của đồ chúng, Hòa thượng cho xây dựng Thiên Bửu Tháp (còn gọi là Cửu Liên Đài) đối diện chùa Thiên Thai.

    Năm 1931, Hòa thượng Khánh Hòa, cây đại thụ của phong trào chấn hưng Phật giáo, khám phá hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học tại chùa Linh Sơn, gần chợ Cầu Muối. Tuy nhiên, do gặp khó khăn trên con đường hoằng dương chánh pháp, hội không thể tiến triển suôn sẻ.

    Trước tình hình khó khăn, các Hòa thượng tận tâm với mục tiêu chấn hưng Phật giáo đã phải quay về tổ chức các tổ chức Phật giáo riêng biệt để tiếp tục hoằng pháp. Hòa thượng Khánh Hòa thành lập hội Lưỡng Xuyên Phật Học năm 1934, Hòa thượng Trí Thiền thành lập Hội Phật Học Kiêm Tế năm 1937.

    Theo chiều hướng này, năm 1935, Hòa thượng Khánh Hòa thành lập hội Thiên Thai Thiền Giáo Tông, có trụ sở tại chùa Long Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngài cũng xuất bản tờ Bát Nhã Âm để thúc đẩy phong trào chấn hưng Phật giáo và hoằng dương chánh pháp. Ngài cũng mở trường gia giáo tại chùa Long Hòa, quy tụ hàng Phật tử xuất gia và tại gia về tu học ngày càng đông.

    Ngài thường nhắc nhở đồ chúng rằng: “Duy trì Phật pháp chính là mở rộng công việc hoằng hóa lợi sanh, giáo dục thiện tín, gieo trồng duyên lành, cội phước”. Nhờ tầm nhìn đúng đắn đó, việc truyền bá giáo lý của Hòa thượng được phát triển rộng rãi muôn nơi.

    Năm 1941, Hòa thượng quyết định về thăm quê nhà. Do được ngưỡng mộ, quan huyện Bình Khê và nhiều nhân sĩ trong huyện đã thỉnh cầu Ngài ở lại và thọ giáo tại núi Ông Đốc ở xã Bình Tường – Phú Phong – Tây Sơn – Bình Định, nơi Ngài lập nên chùa Thiên Tôn.

    Tác phẩm

    Công hạnh và đạo nghiệp rực rỡ của Ngài còn thể hiện qua việc trước tác nhiều thơ văn Nôm. Các kinh điển được Ngài diễn Nôm thường tụng còn lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay:

    • Kinh Vu Lan nghĩa.
    • Kinh Di Đà nghĩa.
    • Bát Nhã Tâm Kinh nghĩa.
    • Tịnh Độ Chánh Tông.
    • Bài sám Thảo lư.

    Thời kỳ viên tịch

    Năm 1943, phái đoàn từ các tăng lễ miền Nam được cử ra đón Hòa thượng trở lại chùa Thiên Thai. Trong thời điểm đó, sức khỏe của Hòa thượng đã suy giảm đáng kể. Ngài luôn dặn dò đồ chúng về việc tinh tấn tu hành, duy trì chánh pháp, và tận tâm với sứ mệnh lợi sanh. Hòa thượng sắp xếp lại vị trí trong Tổ đình Thiên Thai và giao nhiệm vụ truyền pháp cho môn đệ.

    Sau năm tiếp theo, năm 1944, Hòa thượng quyết định trở lại chùa Thiên Tôn ở Bình Định. Đến ngày 11 tháng 7 năm Quý Tỵ (1953), Hòa thượng quyết ngồi kiết già, hướng mặt về phương Tây, niệm Phật và viên tịch. Bảo tháp của Hòa thượng được xây dựng trên sườn núi Ông Đốc, gần chùa, để tưởng nhớ đạo hạnh, công đức của Ngài.

    Hòa thượng Huệ Đăng với Tổ đình Thiên Thai là tiêu biểu cho tinh thần Phật giáo gắn với truyền thống yêu nước phụng đạo: Đất nước có độc lập tự chủ thì Phật pháp mới hóa độ tròn duyên.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline