Thân thế
Hòa thượng Thích Huệ Pháp, tên thường gọi là Võ Văn Phó, có pháp hiệu Hồng Phó, là một danh sư thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40. Ngài ra đời vào năm Tân Mão (1891) tại xã Khánh Hòa, tổng An Lương, huyện Châu Phú, tỉnh Châu Đốc, ngày nay là phần thuộc tỉnh An Giang. Ngài sinh ra trong một gia đình trung nông, nho phong lễ giáo, với cha là ông Võ Văn Huỳnh và mẹ là bà Nguyễn Thị Đồng.
Từ khi còn thiếu thời, Hòa thượng Thích Huệ Pháp đã thể hiện những đặc điểm khác biệt so với các bạn đồng lứa. Một điều đặc biệt là sau khi biết ăn, Ngài đã không bao giờ tiếp xúc với thịt cá suốt cuộc đời. Thú vui giải trí của Ngài lúc này chủ yếu là niềm mơ tưởng về Phật pháp, được thể hiện qua việc tự tay nắn tạo những tượng Phật bằng đất.
Năm Mậu Tuất (1898), khi mới 8 tuổi, Ngài đã bắt đầu học chữ quốc ngữ. Nhận ra sự thông minh và nhạy bén của Ngài, năm sau, Kỷ Hợi (1899), thân phụ quyết định gửi Ngài đến thầy giáo Bửu, một nhà Nho kiêm lương y, để học chữ Nho và Đông y dược.
Cơ duyên tu hành
Cuộc sống hướng thượng của Ngài dần trở nên không phù hợp với gia đình, khiến Ngài cảm thấy buồn chán trước thực tế đau khổ và vô thường của cuộc sống. Đặc biệt, sau 5 năm học theo thầy Bửu và nắm vững kiến thức về các tánh dược, phương thang, và lý thuyết Đông y cũng như đạo lý Nho học, Ngài quyết định ly gia cắt ái để tìm kiếm thầy giáo và học Phật pháp sâu sắc hơn.
Năm Ngài lên 13 tuổi (1904) theo năm Giáp Thìn, Ngài quyết định trốn khỏi nhà để theo đuổi đam mê tâm linh của mình. Theo bước chân của Thái tử Tất Đạt Đa, Ngài tự cạo tóc xuất gia và bắt đầu tu hành, tìm kiếm sư huynh để học Phật pháp. Một ngày, khi may mắn gặp người thân chèo ghe buôn trên sông Nam Vang, Ngài đã quá giang sông và tiếp tục hành trình sang Cao Miên. Ở xứ này một thời gian, học đạo chưa thỏa mãn nên Ngài lại vượt qua Ai Lao, rồi thẳng sang Thái Lan.
Thời kỳ vân du, độ hóa phương xa
Nhờ phúc duyên, đến nơi nào Ngài tham học Phật pháp từ các sư sãi nhiệt tình, và qua hai năm tu hành, Ngài thu thập được nhiều kiến thức vô cùng quý báu về Phật pháp từ các giáo hệ Nam Tông Phật Giáo cũng như bí pháp của Miên, Lào và Thái, điều mà lúc đó, người Việt ở ba quốc gia này không một ai sánh kịp.
Năm sau, Bính Ngọ (1906), Hòa thượng trở lại đất nước Ai Lao để thực hiện chuyến du khảo tại các địa điểm như cố đô Luangprabang, cánh Đồng Chun, Sầm Nứa, Phong Xa Ly, Xiêng Khom và Vientiane.
Tại thủ đô này, Ngài gặp Sư tổ Như Tâm, một nhân vật Việt nổi tiếng với kiến thức vững về Nho học, Tây học và Phật học. Ngài cầu học về quẻ Dịch và yếu lý Đại thừa Phật giáo trong những ngày Sư Tổ lưu trú tại nhà người thân ở Vạn Tượng. Sau khoảng thời gian đó, Sư Tổ trở về Việt Nam và khai sơn chùa Định Long ở Núi Sam, tỉnh Châu Đốc.
Năm Đinh Mùi (1907), sau khi tiễn thầy đi, Hòa thượng tiếp tục ở lại Ai Lao để tu học và giảng dạy cho những tu sĩ từ Trung Việt đến, và đặc biệt là tại tỉnh Savanakhet. Tại đây, Ngài được lòng hàng Phật tử bản xứ nhờ công đức tu tập. Chấp thuận ý đề xuất, Hòa thượng cho phép họ quyên góp để xây dựng một ngôi chùa Việt Nam đầu tiên tại Savanakhet, với hy vọng thỉnh cầu Ngài lưu trú lâu dài để hóa độ. Ngôi chùa được đặt tên theo tỉnh (Savanakhet). Trong 7 năm lưu trú tại đây, nhờ uy đức và phương pháp trị bệnh bằng Đông y, Hòa thượng trở thành vị Phật sống cứu độ chúng sanh trong cộng đồng người bản xứ.
Năm Quý Sửu (1913), với danh tiếng đã có, Toàn quyền Đông Dương Pasquere cùng hai viên Khâm Sứ của Lào và Cao Miên được vua Hoàng Lân của Cao Miên mời thỉnh Hòa thượng đến để chữa bệnh cho bà Hoàng Thái Hậu. Hòa thượng được đón như một vị Thánh y, từ bến tàu đến Hoàng cung, thể hiện uy quyền và đạo đức lừng lẫy.
Đây là niềm tự hào của Phật giáo Việt Nam. Trong thời gian điều trị, Hòa thượng được dẫn tham quan các di tích như Núi Phật Tổ, đền Angcovat, núi Tà Lơn hùng vĩ, và sau khi chữa lành bệnh cho bà Hoàng Thái Hậu, vua Cao Miên trao tặng danh hiệu Chef de Bonze (Tăng Cang hoặc Tăng Thống), cùng nhiều phần quà quý giá, huy chương vàng. Sự kiện này có sự chứng kiến của đại diện từ ba quốc gia Cao Miên, Lào và Việt Nam.
Những đóng góp cho Phật giáo nước nhà
Năm Giáp Dần (1914), sau 10 năm đi vân du khắp nơi hóa độ, Ngài quyết định trở về Việt Nam từ đất nước Cao Miên. Cuộc tiễn đưa Ngài về nước được tổ chức trọng thể bởi Hoàng gia, và thông báo trước cho Tỉnh trưởng Châu Đốc để chuẩn bị đón tiếp.
Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng này, khi trở về xã Khánh Hòa, huyện Châu Đốc, Ngài được đón tiếp trọng thể, và công việc đạo pháp của Ngài phát triển mạnh mẽ. Ngài ngay lập tức mở phòng chẩn trị từ thiện tại chùa Đức Lâm để hỗ trợ người nghèo, thu hút sự tin tưởng và đến thăm của đông đảo người dân. Sự phát triển này khiến người Pháp lo lắng và cố gắng kiểm soát.
Sau đó, Hòa thượng đến chùa Định Long trên núi Sam để bái kiến Bổn sư. Tổ Như Tâm chính thức phú pháp cho Ngài, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40, với pháp danh Huệ Pháp, húy Hồng Phó. Bổn sư chọn Ngài làm Thủ tọa chùa Định Long và khuyên Ngài tìm nơi trú xứ để độ chúng tiếp Tăng. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Ngài phải thay đổi thói quen ăn uống, trở lại việc ăn cơm theo thời khóa sau, sau hơn 10 năm chỉ ăn rau quả.
Năm Mậu Ngọ (1918), sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài tạm giao chức Thủ tọa chùa Định Long cho thầy Thiện Ngọc để trở về xã Khánh Hòa và xây dựng chùa theo di huấn của Bổn sư. Những người hảo tâm trong địa phương tích cực hỗ trợ công trình xây dựng. Đến năm Ất Sửu (1925), chùa mới được hoàn thành và mang tên chùa Long Khánh. Ngày khánh thành là ngày mở Đại giới đàn, Ngài được cử làm Đường đầu Hòa thượng, truyền giới cho Tăng Ni, Phật tử đến thọ pháp. Ngài cũng mở các khóa học Phật pháp thường kỳ và đã đào tạo nhiều học trò xuất sắc trong lĩnh vực Phật học.
Năm Kỷ Tỵ (1929), Hòa thượng Khánh Hòa, cùng với Sư Thiện Chiếu của chùa Linh Sơn – Sài Gòn và ông Cò Mi Chấn (Dinh Đốc Lý Sài Gòn), khởi xướng phong trào chấn hưng Phật Giáo. Ngài đóng góp bằng cách thành lập Phật Học Thư Xã và xuất bản tập san Phật Học đầu tiên bằng chữ quốc ngữ.
Năm Canh Ngọ (1930), để chuẩn bị cho Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, Hòa thượng Khánh Hòa công cử Ngài đi khắp các tỉnh Nam Kỳ để kêu gọi chư Tôn đức tham gia phong trào Chấn Hưng Phật Giáo. Ngày 26.8.1931, Thống đốc Nam Kỳ ký giấy phép cho Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học được thành lập. Ngài được mời làm hội viên chính thức và thường kỳ tham gia đại hội hàng năm tại Sài Gòn.
Năm Nhâm Thân (1932), trong đại hội bầu lại Ban Trị Sự Trung Ương Hội, Hòa thượng Huệ Pháp được bầu làm Hội Trưởng chi nhánh tỉnh Châu Đốc.
Năm Bính Tý (1936), Hòa thượng lại lần nữa đắc cử giữ chức Chánh Hội trưởng Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học sau một thời gian gián đoạn. Cùng năm đó, Hội quyết định gửi Hòa thượng làm đại diện để mang kinh sách tặng hai vương quốc Cao Miên và Ai Lao, góp phần khích lệ phong trào Phật học đang phát triển mạnh mẽ ở đó. Hành trình kéo dài một tháng hai mươi ngày, nhưng Ngài được tiếp đón một cách trọng thể.
Năm Ất Hợi (1935), nhờ vào sự phát triển về kinh tế và uy tín, chùa Long Khánh quản lý đến hơn 12 mẫu ruộng đất, do lòng hảo tâm của Phật tử hiến cúng để đền ơn Ngài đã chữa lành bệnh nan y. Điều này giúp việc tiếp đón Tăng và độ chúng trở nên thịnh vượng hơn, đồng thời cung cấp phương tiện cho việc trùng tu và xây dựng các công trình mới, làm cho chùa trở nên trang nghiêm và hùng vĩ.
Năm Bính Tý (1936), trong dịp giỗ Tổ Bổn sư (ngày 2-9 ÂL), nhiều chư Tôn đức và cư sĩ Phật tử địa phương đã tập trung tại đây. Hòa thượng Huệ Pháp đã dành thời gian để phó chúc và dặn dò các đệ tử về những điều trọng yếu, hướng dẫn họ sống đúng theo đạo hạnh của người con Phật hộ đạo giúp đời. Từ thời điểm đó, Hòa thượng chuyên tâm vào tu niệm và việc truyền đạt đại chúng tu hành cho đến khi đến hồi mãn duyên.
Thời kỳ viên tịch
Năm Bính Tuất (1946), sau một thời gian đau ốm, Hòa thượng Huệ Pháp đã thâu thần viên tịch vào lúc 15 giờ 20 phút chiều ngày 26 tháng 3 ÂL. Với 56 năm trụ thế và 42 năm tu đạo, bảo tháp Xá lợi của Hòa thượng Ngài được xây dựng trong khuôn viên chùa Long Khánh, xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang ngày nay.
Hòa thượng Huệ Pháp, một danh Tăng của Việt Nam, với đức độ và công hạnh, đã thu hút sự kính phục của vua Cao Miên và Ai Lao. Điều này đã đóng góp vào việc lan tỏa Phật giáo rộng rãi, khích lệ phong trào Bồ Đề khắp ba nước Đông Dương.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995