Hòa thượng Thích Huệ Quang (1888 – 1956)

Hòa thượng Thích Huệ Quang (1888 – 1956)
15:46 - 12.05.2024
Hòa thượng Huệ Quang, tên thật là Nguyễn Văn Ân, sinh năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau đó về Trà Vinh theo mẹ. Ngài là một vị cao tăng thạc đức, đã hy sinh cho công cuộc chấn hưng Phật giáo đến phút cuối cùng.

    Thân thế

    Hòa thượng Huệ Quang, tên thật là Nguyễn Văn Ân, sinh năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau đó về Trà Vinh theo mẹ. Ngài là một vị cao tăng thạc đức, đã hy sinh cho công cuộc chấn hưng Phật giáo đến phút cuối cùng.

    Cơ duyên tu hành

    Năm 1902, ngài xuất gia tại chùa Long Thành ở Trà Cú dưới sự mến thương và đặt pháp danh là Thiện Hải, do Hòa thượng Thiện Trí truyền. Ngoài việc học Phật pháp, ngài còn được Hòa thượng cho học y học.

    Khi thấy chùa Long Hòa ở quận Tiểu Cần – Trà Vinh bị hư hại và hoang phế, ngài đã quyết định trùng tu chùa. Nhận được sự mến đức từ dân chúng và tín đồ Phật tử ở Tiểu Cần, ngài được gửi đại diện đến bạch Hòa thượng ở Trà Cú, xin phép để ngài trụ trì chùa Long Hòa. Hòa thượng chấp nhận và ngài trở về Tiểu Cần.

    Với đức độ sẵn có và kiến thức y học, ngài đã nhiếp hóa nhiều đồ chúng. Giới trí thức địa phương rất mến phục ngài, thường xuyên đến chùa để học hỏi và thảo luận.

    Năm 1919, ngài đắc pháp với Hòa thượng Từ Vân, và nhận pháp hiệu là Huệ Quang. Ngài bắt đầu theo dõi tân thư và báo chí, có kiến thức về phong trào Phật giáo toàn cầu đang lên mạnh mẽ, sôi nổi.

    Phật giáo thế giới bắt đầu với sự khởi đầu được phục hưng. Ở Trung Hoa, Thái Hư Đại Sư xây dựng Phật học viện và Hải Triều Âm. Ở Nhật Bản, Tommatsu tiên sinh và các nhà nghiên cứu khác thực hiện chương trình biên tập lại Đại Tạng Kinh. Ở Thái Lan, Phật giáo trở thành quốc giáo và đóng vai trò quan trọng trong giáo dục quốc dân. Ở Myanmar, một viện nghiên cứu Phật giáo được thành lập.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Đối mặt với sắc thái mới của sự phục hưng Phật giáo toàn cầu, Hòa thượng Huệ Quang cùng các Hòa thượng ở Nam kỳ lập ra Hội Lục Hòa với mong muốn mở Phật học viện và thư xã.

    Năm 1928, cùng với các Hòa thượng Khánh HòaPháp Hải, Khánh Anh, Liên Trì, các Thượng tọa Từ Nhân, Chơn Huệ, Thiện Niệm, ngài cổ động để tạo lập thư xã. Tháng 8 năm 1929, đàn việt thiện tín Trà Vinh cùng nhau hiến cúng bộ Đại Tạng toàn bản, bao gồm 750 quyển lớn, được trưng bày trong thư xã để làm tài liệu cơ bản cho công việc nghiên cứu.

    Năm 1931, Hòa thượng Huệ Quang, cùng với Hòa thượng Khánh Hòa và các cao Tăng khác, hợp sức với một số cư sĩ hữu tâm, đã thành lập Hội Nghiên Cứu Phật Học Nam Kỳ, có trụ sở tại chùa Linh Sơn trên đường Douaumont, Sài Gòn (hiện là đường Cô Giang). Hội này xuất bản tạp chí Từ Bi Âm.

    Năm 1934, Hòa thượng Huệ Quang bàn bạc với các Hòa thượng Khánh Hòa, Chánh TâmViên Giác về việc lập Liên Đoàn Phật Học Xã ở Trà Vinh. Mục tiêu của liên đoàn là đào tạo Tăng tài, tạo nền tảng cho sự trùng hưng Phật pháp trong tương lai. Học viên Tăng gia đã tham gia học tập tại các chùa Long Hòa (Trà Vinh), Thiên Phước (Trà Ôn) và Viên Giác (Bến Tre) theo lộ trình từng tam cá nguyệt. Sau khi nhận thấy sự bất tiện trong việc di chuyển, các Hòa thượng quyết định lập trường Phật học tại Trà Vinh.

    Tháng 8 năm 1934, Hội Lưỡng Xuyên Phật Học được phép thành lập, với ông Huỳnh Thái Cửu làm chánh hội trưởng và Hòa thượng Khánh Hòa làm pháp sư. Hòa thượng Huệ Quang, lúc đó 46 tuổi, được chọn làm giảng sư kiêm Tổng lý của hội. Trong những buổi thuyết pháp, ngài đã nêu rõ sự cần thiết của việc thành lập Giáo hội, xuất bản tạp chí, và kiến tạo Phật học đường. Ngài đã có những dự đoán và lo lắng sâu sắc về tương lai của Phật giáo Thống nhất.

    Tháng 7 năm 1935, tạp chí Duy Tâm được phép xuất bản, do Hòa thượng Huệ Quang làm chủ nhiệm. Lưỡng Xuyên Phật Học Đường đã thực hiện sứ mạng tuyên truyền chánh pháp và đào tạo Tăng tài một cách ấn tượng. Trong khi làm chủ nhiệm tờ báo, Hòa thượng Huệ Quang cùng với các Hòa thượng Khánh Hòa, Pháp Hải, Khánh Anh, cùng các Thượng tọa Từ Nhân, Chơn Huệ, Thiện Niệm hợp tác trong việc quản trị và giáo dục tại Phật Học Đường.

    Năm 1945, do chiến tranh nổ ra, hoạt động của Lưỡng Xuyên Phật Học Hội và Phật Học Đường buộc phải tạm ngưng. Đại chúng phải tan rã, cơ sở Phật Học Hội bị quân đội Pháp chiếm đóng. Hòa thượng Huệ Quang lui về chùa Long Sơn ở Tiểu Cần để tĩnh tu.

    Năm 1951, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập và đại hội đại biểu nhóm họp tại Huế. Tuyên ngôn thành lập Tổng Hội được lan truyền khắp nơi. Ngày 8 tháng 3 năm 1953, theo sự thỉnh cầu của Giáo hội Tăng già Nam Việt, Hòa thượng Huệ Quang được suy tôn lên ngôi Pháp chủ.

    Năm 1954, chỉ mười ngày sau khi Hiệp định Genève được ký kết, một phong trào Hòa Bình bùng nổ tại Sài Gòn – Chợ Lớn, với mục tiêu đấu tranh cho hòa bình và thống nhất đất nước. Phong trào này do những nhân sĩ yêu nước từ cả miền Bắc và miền Nam khởi xướng. Hòa thượng Huệ Quang, trong tư cách Pháp chủ của Giáo hội Tăng già Nam Việt, cùng với nhiều nhà trí thức Phật tử, tích cực hỗ trợ và kêu gọi Tăng Ni và tín đồ Phật giáo tham gia. Vì đấu tranh cho nguyên tắc này, Ngài đã bị tạm giam tại bót Catinat và sau đó được chuyển đến chùa Phật Quang ở Chợ Lớn.

    Năm 1956, trong kỳ Đại hội Phật giáo lần thứ 2 tại Sài Gòn, Hòa thượng Huệ Quang được suy cử làm Phó Hội chủ của Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Ngài còn được mời làm Chủ nhiệm của tập san Phật giáo Việt Nam, được phép xuất bản từ tháng 8 dương lịch.

    Thời kỳ viên tịch

    Ngày 10 tháng 11 năm 1956, Hòa thượng Huệ Quang cùng phái đoàn Phật giáo Việt Nam tham gia Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới lần thứ 4 tại Nepal. Sau khi tham dự Đại hội Phật giáo Thế giới, Ngài và đoàn trở về New Delhi. Tại đây, Ngài tham gia quan sát Đại hội Văn hóa Quốc tế và cuộc triển lãm Nghệ thuật Phật giáo. Ngài cùng với Hòa thượng Thích Tịnh Khiết tham gia cuộc mít tinh tại công trường Ramila và thăm viếng các di tích Phật giáo.

    Sau khi chiêm bái các Phật tích và về Việt Nam, Hòa thượng Huệ Quang mắc bệnh và từ trần đột ngột vì tai biến mạch máu não, hưởng thọ 68 tuổi sau 37 năm hoằng hóa. Nhục thân của Ngài được hỏa táng tại Ấn Độ.

    Ngày 10-12-1956, Linh vị và xá lợi của Hòa thượng được đưa về Việt Nam và đặt tại chùa Ấn Quang, trụ sở của Tổng Hội Phật Giáo. Đây là nơi Tăng Ni và tín đồ tưởng niệm và thắp hương tại thập phương. Sự nghiệp và đời sống của Hòa thượng Huệ Quang, một vị cao tăng thạc đức, đã dành trọn lòng cho công cuộc chấn hưng Phật giáo, để lại dấu ấn vĩ đại trong lòng hậu thế Tăng Ni và Phật tử Việt Nam.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline