Thân thế
Hòa thượng có thế pháp Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Thích Khánh Anh được sinh ra vào năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Từ khi còn nhỏ, Ngài đã theo học Nho và luôn thể hiện mình là một Nho sinh xuất sắc.
Cơ duyên tu hành
Năm 21 tuổi (1916), nhận ra sự vô thường của cuộc đời, Hòa thượng quyết định quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Sau đó, năm 22 tuổi (1917), Ngài nhập chúng tu học tại chùa Quang Lộc trong tỉnh, nhận pháp danh Chơn Húy.
Nhờ sự vững chắc về Hán học, Ngài nhanh chóng tiến bộ trong nghiên cứu kinh tạng và thọ giới Sa Di. Ngài cũng nghiên cứu Kinh, Luật, Luận và thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài đã trở thành một giảng sư Phật học nổi tiếng.
Năm 1927, Ngài được mời vào trong Nam giảng dạy tại trường gia giáo chùa Giác Hoa tỉnh Bạc Liêu. Năm 1928, Ngài trở về dạy Phật pháp tại chùa Hiền Long tỉnh Vĩnh Long. Đến năm 1931, Ngài chấp nhận trú trì chùa Long An, xứ Đồng Đế, tỉnh Cần Thơ, nơi thu hút đông đảo Tăng tín đến cầu học.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm 1935, Hòa thượng tham gia lãnh đạo Hội Lưỡng Xuyên Phật Học tại chùa Long Phước tỉnh Trà Vinh, cùng với các Hòa thượng Khánh Hòa, Huệ Quang, Pháp Hải v.v… và mở Phật Học Đường tại đây để đào tạo Tăng tài, truyền trì đạo pháp tại miền Nam.
Ngài tích cực tham gia giảng dạy tại Phật Học Đường và hợp tác với tạp chí Duy Tâm, cơ quan truyền bá đạo Phật của Hội. Ngài còn viết nhiều bài báo để khích lệ phong trào chấn hưng Phật giáo trong nước, mong muốn theo kịp sự phát triển của các nước Phật giáo khác như Trung Hoa, Nhật Bản, v.v.
Năm 1940, Hòa thượng được mời làm Pháp sư dạy ba tháng tại chùa Thiên Phước ở Tân Hương, tỉnh Tân An. Năm sau, Ngài lại đến dạy Phật học trong ba tháng cho Đại giới đàn chùa Linh Phong ở Tân Hiệp.
Trong năm 1942, Phật Học Đường Lưỡng Xuyên tạm nghỉ mấy tháng do thiếu tài chánh. Hòa thượng quay về trú trì chùa Phước Hậu ở Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, mở các lớp giáo lý cho Tăng Ni và tín đồ địa phương. Năm 1945, Hòa thượng được Hòa thượng Huệ Quang mời về giảng dạy tại trường gia giáo chùa Long Hòa, quận Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.
Sau Cách Mạng Tháng Tám năm 1945, Hòa thượng quyết định về nhập thất tại chùa Phước Hậu để tập trung tâm nghiên cứu Tam Tạng kinh điển. Trong giai đoạn từ đó đến năm 1955, Ngài đã sáng tác và phiên dịch nhiều tác phẩm quan trọng. Ba tập sách “Khánh Anh Văn Sao” được Ngài biên soạn và xuất bản, trong đó một tập chứa những bài viết về giáo lý, bài giảng và thi bút của Ngài.
Năm 1955, khi Hội Phật Học Nam Việt thành lập, Hòa thượng được cung thỉnh vào ban Chứng minh Đạo sư của hội. Hai năm sau, vào ngày mồng một tháng ba năm Đinh Dậu (31-3-1957), Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Nam Việt Kỳ III tại chùa Ấn Quang đã suy tôn Ngài lên ngôi Pháp Chủ để lãnh đạo Phật giáo miền Nam, tiếp nối công trạng của Hòa thượng Huệ Quang.
Ngày 10-9-1959, tại chùa Ấn Quang, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc Kỳ II đã trọng thể suy tôn Hòa thượng lên ngôi Thượng Thủ, đảm nhận trách nhiệm lớn trong việc lãnh đạo Phật giáo Việt Nam. Ngài thường trú tại chùa Ấn Quang để hướng dẫn,đôn đốc Phật tử và tiếp tục công việc phiên dịch và trước tác. Trong thời gian này, Ngài vẫn duy trì tinh tấn tu hành và niệm Phật, không bao giờ quên câu niệm để cầu nguyện cho sự sanh linh tại Tây Phương Lạc quốc.
Thời kỳ viên tịch
Xuân Tân Sửu (1961), Nhân dịp hành hương đầu năm, Hòa thượng rời chùa Ấn Quang để thăm chùa Phước Hậu ở Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Tiếp theo, Ngài trở về chùa Long An xứ Đồng Đế, nơi Ngài từng trú trì từ năm 1931. Cảm nhận sự thay đổi trong bản thân và nhận thức cơ duyên đến gần, Ngài triệu đệ tử đến để dặn dò khuyên bảo về tu học và đạo đức.
Sau những lời dạy dỗ, Ngài an nhiên thị tịch vào chiều ngày 30 tháng giêng năm Tân Sửu (16-4-1961), khi Ngài hưởng thọ 66 tuổi, với 45 năm dành đời sống theo đạo. Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc đã long trọng rước kim quan của Ngài về chùa Ấn Quang để cử hành lễ mai táng tại An Dưỡng Địa Bình Chánh.
Nơi lưu giữ xá lợi của Hòa thượng
Đến ngày 15 tháng 2 Đinh Mùi (25-3- 1967) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất long trọng cử hành lễ trà tỳ, rồi rước linh cốt Ngài về chùa Ấn Quang và chia thờ các nơi sau đây:
- Chùa Ấn Quang, trụ sở Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc.
- Chùa Long Phước (Trà Vinh), trụ sở Hội Lưỡng Xuyên Phật Học.
- Tháp Đa Bảo ở chùa Phước Hậu, Trà Ôn, Cần Thơ.
- Chùa Từ Nghiêm, trụ sở Ni bộ Bắc tông.
- Chùa Long Phước, trụ sở Giáo Hội tỉnh Vĩnh Long.
Tác phẩm tiêu biểu
Sự nghiệp trước tác và dịch phẩm của Ngài để lại gồm có:
- Hoa Nghiêm nguyên nhân luận.
- Nhị khóa hiệp giải.
- 25 Bài thuyết Pháp của Thái Hư Đại Sư.
- Tại gia cư sĩ luật.
- Duy thức triết học.
- Qui nguyên trực chỉ.
- Và Khánh Anh Văn Sao (3 tập).
Hòa thượng Thích Khánh Anh là một vị hiền đức cao Tăng uyên tâm, bác học. Sự nghiệp hoằng dương chánh Pháp, giáo hóa lợi sanh của Ngài rất lớn lao. Ngài xứng đáng là viên đá lớn trong lâu đài Phật Giáo Việt Nam. Ngài đã dày công đào tạo nhiều thế hệ Tăng Ni mà ngày nay, nhiều người trong số đó đủ khả năng và đức hạnh tiếp nối, vun đắp cho cây đại thụ Phật Giáo Việt Nam ngày một vững bền, xanh tươi.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995