Thân thế
Ngài còn được biết đến với các danh hiệu Pháp danh Như Trí và pháp hiệu Khánh Hòa, ra đời trong một gia đình trung lưu tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre, năm Mậu Thân (1877). Ngài có nền gốc Nho học từ nhỏ và được biết đến với đặc điểm thông minh và tính hạnh tốt lành. Là người anh cả, Ngài có hai người em, một trai và một gái.
Cơ duyên tu hành
Người em trai kế của Ngài cũng sau này đã xuất gia theo đuổi con đường tu học. Trong khi đó, người em gái của Ngài thì đã trì trệ từ thế giới này khi còn rất nhỏ.
Năm Ất Mùi (1895), khi 19 tuổi, Ngài quyết định nhập chùa và bắt đầu hành trình học Phật pháp tại chùa Long Phước, quận Ba Tri. Sau đó, Ngài tiếp tục hành trình tu học tại chùa Kim Cang, tỉnh Tân An, dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Long Triều. Thời kỳ này, sự chăm chỉ và nỗ lực của Ngài trong học Phật pháp đã khiến Ngài được tôn trọng và yêu mến bởi các bậc trưởng lão.
Năm Giáp Thìn (1904), Ngài nhận lễ nhập hạ tại chùa Long Hoa, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, và bắt đầu sứ mệnh giảng dạy Phật pháp. Bài giảng về kinh Kim Cang Chư Gia của Ngài đã làm nổi bật bảo hiệu Khánh Hòa, vang danh khắp nơi.
Năm Bính Thìn (1916), khi làm trụ trì chùa Tuyên Linh, tỉnh Bến Tre, Ngài thường xuyên lo lắng về tương lai của ngôi nhà chánh pháp. Với trình độ thâm đạt Phật lý và đức tính ôn hòa, Ngài luôn trăn trở trước viễn cảnh ngôi nhà chánh pháp có nguy cơ sụp đổ, thường hay than rằng : “Phật pháp suy đồi, Tăng đồ THẤT HỌC và không ĐOÀN KẾT”. Do vậy, với quyết tâm thi hành nhiệm vụ của một Sứ giả Như Lai, mong muốn thực hiện thống nhất Phật giáo và chỉnh đốn Tăng già.
Mong muốn rất to lớn và chính đáng này, trong hoàn cảnh chung thời bấy giờ, không phải ai cũng có. Biết được Ngài đang ôm ấp hoài bão thiết tha đó, một vị Hòa thượng hỏi Ngài với đại ý việc cổ động chấn hưng Phật giáo ấy có mấy người đồng tình đồng tâm hưởng ứng và tại sao nhiều chùa giàu có không đứng ra chung lo với Ngài? Ngài từ tốn đáp rằng: “Ở đời, vàng bạc bao giờ cũng ít, ngói đá lúc nào cũng nhiều. Chúng ta dù ít nhưng cố gắng sẽ thành công. Khó gì bằng lìa bỏ tình yêu cha mẹ vợ con và đời sống cao sang quyền quý, vùi thân trong núi tuyết rừng già mà đức Bổn Sư ta còn bỏ được và làm được thay!”.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm Canh Thân (1920), Hòa thượng quý Ngài đã cùng với các Hòa thượng khác thành lập Hội Lục Hòa với mục tiêu đầu tiên là thực hiện hoài bão tạo ra sự đoàn kết và tương thân theo pháp Phật trong cộng đồng Tăng sĩ. Ngài không chỉ hướng dẫn mở trường gia giáo để đào tạo những Tăng Ni có khả năng lãnh đạo, mà còn chăm sóc việc dịch các tác phẩm quan trọng như Kinh, Luật, và Luận sang chữ quốc ngữ, nhằm mục đích phổ cập kiến thức Phật pháp cho mọi tầng lớp trong xã hội.
Năm 1927, Hòa thượng đã quyết định cử Sư Thiện Chiếu ra Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ vận động chấn hưng Phật giáo. Tuy nhiên, sau một thời gian không đạt được thành công như mong đợi, năm 1928, Sư Thiện Chiếu đã phải trở về Sài Gòn.
Trong năm 1928, Hòa thượng cùng với các Hòa thượng Thiện Chiếu, Từ Nhẫn, Chơn Huệ và Thiện Niệm đã lập Thích Học Đường và Phật Học Thư Xã tại chùa Linh Sơn (Cầu Muối). Cùng kỳ, chư Tôn đức tỉnh Bình Định cũng mở trường hạ tại Tổ đình Long Khánh (Quy Nhơn) và đã mời Hòa thượng làm Pháp sư chủ giảng trong suốt 3 tháng tại đó.
Tháng giêng năm Kỷ Tỵ (1929), khi trở lại quê nhà, vẫn không hề nản lòng trước những thách thức, Hòa thượng đã quyết định tiếp tục công việc cổ động chấn hưng Phật giáo khắp các tỉnh Nam Bộ, không ngừng dạy dỗ và lan tỏa tri giác đến mọi tầng lớp xã hội, kêu gọi sự đồng tình, ủng hộ với ba phương châm:
1/ Chỉnh đốn Tăng già.
2/ Kiến lập Phật học đường.
3/ Diễn dịch và xuất bản kinh sách Việt ngữ.
Với tâm lực là hành trang theo Ngài trên mọi nẻo đường từ tỉnh này sang tỉnh khác. Ngài đem hết can tràng tha thiết chỉ rõ sự suy đồi và nguy cơ bị tiêu diệt của Phật giáo nếu không sớm CHẤN HƯNG. Tuy nhiên chỉ có các vị Huệ Quang, Kim Huê, Vạn An, Liên Trì, Viên Giác… tỏ ra đồng tình ủng hộ triệt để và hết lời ca ngợi việc làm cao đẹp này. Ngoài ra, hầu hết chỉ nghĩ đến tông môn mình, chùa mình và từ chối thoái thác cộng tác. Có nhiều khi, Ngài còn bị những người ấy công kích hủy báng hết sức thậm tệ. Có lúc Ngài tự than rằng: “Ôi ! Phật pháp suy vi, Tăng đồ hủ bại đến thế là cùng. Rồi đây, họ sẽ bị trào lưu đào thải !”. Nhưng Ngài vẫn không nản chí, mà ngược lại càng nhẫn nại và sáng suốt hơn bao giờ hết.
Để thúc đẩy việc truyền bá Phật pháp, Hòa thượng Khánh Hòa cùng các Hòa thượng khác đã hợp sức xuất bản tập san Phật Học với tên gọi là Pháp Âm, số đầu tiên ra mắt vào ngày 13.8.1929. Sau đó, Hòa thượng tiếp tục với tập san Phật Hóa Tân Thanh Niên năm 1930, chứa đựng nội dung tiến bộ hơn, hướng đến hàng cư sĩ trí thức và Tăng sĩ trẻ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do nội ngoại chướng, cả hai tập san này đều phải ngừng hoạt động.
Năm Tân Mùi (1931), Hòa thượng Khánh Hòa cùng nhiều vị Tôn đức và cư sĩ học giả thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, đặt Hội quán tại chùa Linh Sơn – Sài Gòn và xuất bản tạp chí Từ Bi Âm (1932). Hòa thượng được bầu làm Đệ nhứt Phó Hội trưởng kiêm Chủ nhiệm báo Từ Bi Âm. Ngài đã động viên cư sĩ Phật tử Trà Vinh thỉnh và hiến cúng Tam Tạng kinh điển để làm tài liệu nghiên cứu và diễn dịch. Vì không có tài chánh xây thư viện, Hòa thượng đã đàm phán với bổn đạo chùa Tuyên Linh để hiến ngôi chánh điện cho hội, nhằm xây dựng Pháp Bảo Phường, nơi lưu trữ Tam Tạng Kinh và Pháp Bảo vẫn còn tại chùa Linh Sơn – Sài Gòn.
Sau hai năm hoạt động tích cực, Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học bắt đầu gặp khó khăn do sự độc tài của một số cá nhân kỳ thị, khuynh loát Thích Học Đường không khai giảng được. Đối mặt với nguy cơ không thể chỉnh đốn, Hòa thượng cùng Tổ Huệ Quang quyết định rút lui về Lục tỉnh.
Năm Quý Dậu (1933), không nản lòng, Hòa thượng Khánh Hòa và các Tổ Huệ Quang, Pháp Hải, Khánh Anh… thành lập Liên Đoàn Phật Học Xã để tiếp tục sứ mệnh đào tạo Tăng tài. Tổ chức này có hình thức di động, luân phiên mỗi chùa 3 tháng, sau đó chuyển đến chùa khác. Liên Đoàn Phật Học Xã được khai Gia Giáo và bắt đầu từ chùa Từ Hòa thuộc làng Long Hòa, huyện Tiểu Cần; rồi tiếp tục khai giảng tại chùa Thiên Phước, quận Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, sau đó chùa Viên Giác, tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên, công việc này gặp nhiều thách thức và cuối cùng, nó đã gãy đổ hoàn toàn vào năm 1934.
Năm Giáp Tuất (1934), Hòa thượng Khánh Hòa lại cùng với các Tổ Huệ Quang, Khánh Anh, Pháp Hải… và cư sĩ tỉnh Trà Vinh thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật Học do Hòa thượng làm Pháp sư.
Hòa thượng Khánh Hòa tiếp tục đóng góp cho sự phát triển Phật giáo bằng cách xuất bản tạp chí Duy Tâm và thỉnh Đại Tạng, Tục Tạng nhằm làm tài liệu nghiên cứu và dịch giảng. Song song với đó, Ngài còn đóng góp vào việc kiến tạo Phật Học Đường, nơi khóa học đầu tiên bắt đầu vào năm Ất Hợi (1935) với ba mươi học viên Tăng, trong đó có các Ngài Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hành Trụ… Hội Lưỡng Xuyên Phật Học và tạp chí Duy Tâm duy trì hoạt động cho đến khi chiến tranh bùng nổ vào năm 1945.
Thời kỳ viên tịch
Sau đó, do sức khỏe giảm sút, Hòa thượng tạm thời rút lui về chùa Vĩnh Bửu, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre để tập trung vào chuyên tu và tịnh dưỡng. Trong thời gian này, Ngài có vẻ yên lòng với những thành công đã đạt được và những thất bại đã trải qua, hồi sinh tâm hồn và nghỉ ngơi. Tuy nhiên, bất ngờ đến khi Ngài quyết định mở Ni trường Phật Học tại nơi này để tập trung giáo dục cho Ni giới. Các Ni Sư tốt nghiệp từ trường này bao gồm Diệu Ninh (thường được biết đến là Ni Sư Vĩnh Bửu sau này trở thành Quản lý trụ sở Ni bộ chùa Từ Nghiêm – Chợ Lớn).
Trong quãng thời gian tại chùa Vĩnh Bửu, Ngài cùng chư Tôn đức khác đã hết lòng sát cánh bên Ngài tổng kết quá trình phấn đấu cho tương lai Phật giáo. Riêng Ngài, trong lịch sử phôi thai của công cuộc chấn hưng Phật giáo đáng nhớ, đã nổi bật lên ba đức tính làm gương soi cho các thế hệ đi sau làm bài học tiến thủ không ngừng đó là:
1/ Mỗi lần thất bại là mỗi lần cố gắng đứng lên, kiên tâm nhẫn nại, cương quyết như sắt đá, không hề thối chí nản lòng.
2/ Suốt đời hy sinh, hiến thân cho đạo pháp, không nề gian lao, chẳng từ khó nhọc, hy sinh cả tài sản chùa mình để sung vào của công, góp phần chấn hưng, không màng danh lợi, quyền tước và danh vọng.
3/ Thân già nhiều bệnh nhưng chí hướng không già, lúc nào cũng tỏ ra hăng hái trước mọi việc, không chán nản với Phật sự.
Sau đó, Hòa thượng Khánh Hòa quyết định trở lại chùa Tuyên Linh để tiếp tục tịnh dưỡng. Năm Đinh Hợi (1947), trong thời kỳ chiến tranh và loạn lạc đang lan rộ, Ngài đã lập di chúc đầy thiêng liêng, bày tỏ ước nguyện sâu sắc của mình: “Phật Giáo đang hồi suy vi, nước nhà vào cảnh loạn ly, mà tôi không làm được việc gì, nên sau khi tịch rồi, chỉ tẩn liệm tôi với bộ y hậu vải thường, không nên dùng gấm lụa, đừng làm long vị sơn son thếp vàng, vì cần phải tiết kiệm để bố thí cho người nghèo. Còn ngôi chùa tôi khai sáng thì phải giao cho thầy Tỳ Kheo đủ tài đức, giới hạnh tinh nghiêm, trụ trì kế nghiệp. Bao nhiêu tài sản của chùa, phải đem ra nuôi chúng Tăng tu học, không được dành làm của riêng. Đệ tử nào không y theo lời di chúc, thì không phải là môn đồ của Phật giáo.”
Vào ngày 19 tháng 6 năm Đinh Hợi (1947), Hòa thượng Khánh Hòa đã viên tịch tại chùa Tuyên Linh, hưởng thọ 70 tuổi đời và 40 tuổi đạo.
Nơi lưu giữ xá lợi
Năm Ất Mùi (1955), Tổ Huệ Quang (lúc này là Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt) đã hướng dẫn một phái đoàn từ Bến Tre đến cùng môn đồ pháp quyến Tổ đình Tuyên Linh tổ chức lễ trà tỳ linh cốt của Ngài vào ngày 10, 11, 12 tháng 5 năm Ất Mùi. Sau đó, tro xá lợi của Hòa thượng được tôn thờ tại nhiều địa điểm như Tổ đình Tuyên Linh (nơi Ngài viên tịch), chùa Long Phước (trụ sở Hội Lưỡng Xuyên Phật Học), chùa Ấn Quang (trụ sở Giáo Hội Tăng Già Nam Việt), Tháp Đa Bảo (chùa Phước Hậu – Trà Ôn), chùa Vĩnh Bửu (Phật Học Ni Trường), và chùa Từ Nghiêm (trụ sở Ni bộ Bắc tông).
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995