Hòa Thượng Thích Khánh Thông (1870 – 1953)

Hòa Thượng Thích Khánh Thông (1870 – 1953)
22:40 - 13.05.2024
Hòa thượng, với thế danh Hoàng Hữu Đạo, pháp danh Như Tín và pháp hiệu Khánh Thông, ra đời vào năm Canh Ngọ (1870) tại làng An Thủy, tổng Bảo Trị, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình thuộc tầng lớp Nho gia khá giả.

    Thân thế

    Hòa thượng, với thế danh Hoàng Hữu Đạo, pháp danh Như Tín và pháp hiệu Khánh Thông, ra đời vào năm Canh Ngọ (1870) tại làng An Thủy, tổng Bảo Trị, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình thuộc tầng lớp Nho gia khá giả.

    Cha Ngài là ông Hoàng Hữu Nghĩa, và mẹ là bà Đặng Thị Sa. Tuổi thơ, Ngài theo học chữ Nho cùng cụ Đồ Chiểu tại làng An Đức, nơi mà cụ Đồ Chiểu, người lánh nạn từ Cần Giuộc – Long An, mở trường dạy học. Dưới sự dạy dỗ của cụ Đồ Chiểu, Ngài nổi bật với khả năng dịch học và kiến thức về Đông y.

    Cơ duyên tu hành

    Trước khi bước chân xuất gia đầu Phật, Ngài tuân thủ đạo lý luân thường của Khổng Mạnh, châm ngôn chí hiếu với cha mẹ, và duy trì mối quan hệ hòa nhã với hương thôn tổng huyện. Người dân trong vùng coi Ngài như một biểu tượng uy tín của tri thức thiện lương trong tỉnh Bến Tre. Tài năng về thơ phú, xuất khẩu thành chương, và khả năng ứng đối nhanh chóng của Ngài trong việc viết chữ đẹp đã làm nổi bật tầm vóc của Ngài.

    Hàng năm, đặc biệt là dịp gần Tết, Ngài thường được mời viết các câu đối, câu liễn để treo trang trí trên bàn thờ tổ tiên. Không chỉ nổi tiếng với trí nhớ xuất sắc, Ngài còn thuộc lòng nhiều kinh sử trong Tam giáo Cửu lưu. Bản lĩnh hùng biện lưu loát của Ngài luôn thu hút và lôi cuốn người nghe trong các cuộc đàm đạo và giao lưu.

    Một hôm, tự thân suy gẫm về thế cuộc nhân sinh, Ngài bỗng nhớ đến câu:

    Nhơn tình tợ chỉ, trương trương bạc
    Thế sự như kỳ, cuộc cuộc tân.

    Nghĩa là:

    Tình người giống như tờ giấy mỏng
    Cuộc đời chẳng khác nào bàn cờ, thắng bại đổi thay luôn.

    Chạm đến lòng thấu hiểu của lẽ vô thường, hạt giống xuất gia đã nảy mầm trong tâm hồn của Ngài. Năm 1897, 27 tuổi, Ngài tìm đến chùa Long Khánh, xã Bình Tây, để quy y thế độ với Hòa thượng Chấn Bửu. Tại đây, Ngài được ban pháp danh Nguyên Nhơn.

    Sau đó, Ngài hành hương đến chùa Kim Cang, tỉnh Tân An, để cầu chánh pháp nhãn tạng với Tổ Minh Lương, hay Thiền sư Chánh Tâm, và được ban pháp danh Như Tín, pháp hiệu Khánh Thông. Hòa thượng Thích Khánh Hòa là đồng môn huynh đệ của Ngài.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Năm 1907, theo năm Đinh Mùi, Ngài quay về làng An Thủy với lòng tâm khát khao khuyến giáo và kiến tạo ngôi Tam bảo, đặt tên là Bửu Sơn Tự. Trong lễ khánh thành chùa và an vị Phật, Ngài kết hợp mở Đại giới đàn và cung thỉnh Hòa thượng Bổn sư Minh Lương từ chùa Kim Cang giữ ngôi vị Đàn đầu Hòa thượng truyền giới. Ngài cũng được chư sơn và giới tử mời giữ chức Yết Ma A Xà Lê.

    Qua giới đàn này, danh tiếng của Ngài bắt đầu lan tỏa khắp các sơn môn. Những người thiện nam, tín nữ tìm đến Ngài, kính trọng và mong được thọ ân pháp nhũ từ Ngài. Bà Lê Thị Ngỡi, pháp danh Như Ngỡi, ở làng Tân Hào, chợ Hương Điểm, được coi là một nhà đại thí chủ, tôn kính Ngài như Bổn sư. Mọi Phật sự phước đức bà cầu mong đều phải có sự chứng minh của Ngài.

    Ngày rằm tháng 2 năm Quý Hợi (1923), Ngài được cung thỉnh lên ngôi vị Đàn đầu Hòa thượng tại Đại giới đàn chùa Thắng Quang. Sau đó, vào năm Tân Mùi (1931), Ngài lại nhận được sự cung thỉnh để giữ chức Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn tại chùa Long Nhiêu (Bến Tre).

    Ngài, với tri thức Nho học, thêm vào đó là đức độ và uy tín là một thiền gia danh tiếng, thu hút một lượng đông đảo đồ chúng về đảnh lễ và tu học. Trong phong trào chấn hưng Phật giáo, Ngài góp phần đào tạo thế hệ Tăng tài, đáp ứng cho sự chuyển mình của Phật giáo. Lớp Tăng sĩ trẻ do Ngài đào tạo đã làm nền tảng vững chắc cho Hòa thượng Khánh Hòa trong mọi công tác Phật sự.

    Để phân biệt đệ tử của Hòa thượng Khánh Thông và đệ tử của Hòa thượng Khánh Hòa, có một qui ước đặc biệt. Đệ tử của Ngài Khánh Thông thường mang pháp danh chữ “Vĩnh” như Vĩnh Huệ, Vĩnh Đạo, Vĩnh Tấn, trong khi đệ tử của Ngài Khánh Hòa thì mang pháp danh chữ “Thành” như Thành Đạo, Thành Lệ.

    Thời kỳ viên tịch

    Năm Giáp Ngọ (1933), vào ngày mùng 3 tháng 8, sau khi tụng xong một thời kinh, Ngài, cảm thấy thân thể đã mệt mỏi và hiểu rằng trần duyên đã mãn, chuẩn bị buông xả thân tứ đại. Ngài gọi các đệ tử đến bên cạnh, chia sẻ về quãng đời hành đạo của mình, tỏ lòng tri ân với Tổ đình Long Khánh và Tổ đình Kim Cang, cũng như với huynh đệ đồng môn xuất gia tu học từ hồi niên thiếu.

    Ngài khuyên bảo đệ tử xuất gia, tại gia kiên tâm bền chí lo việc tu hành và cảnh báo chúng không nên buồn rầu. Sau những lời dặn dò, Ngài vui vẻ thâu thần về cõi Phật, hưởng thọ 83 tuổi đời, sau 55 giới lạp.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline