Hòa thượng Thích Mật Thể (1912 – 1961)

Hòa thượng Thích Mật Thể (1912 – 1961)
13:59 - 12.05.2024
Ngài Mật Thể, còn được biết đến với pháp danh Tâm Nhất và pháp tự Mật Thể, sinh năm 1912 tại làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Ngài thuộc Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, và là thành viên của dòng Thích Lý, thuộc dòng họ của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài chú trọng đạo Phật, cả cụ thân sinh và người anh ruột đều đã xuất gia.

    Thân thế

    Ngài Mật Thể, còn được biết đến với pháp danh Tâm Nhất và pháp tự Mật Thể, sinh năm 1912 tại làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Ngài thuộc Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, và là thành viên của dòng Thích Lý, thuộc dòng họ của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài chú trọng đạo Phật, cả cụ thân sinh và người anh ruột đều đã xuất gia.

    Cơ duyên tu hành

    Trong tuổi thơ, Ngài được gia đình hướng dẫn học chữ Nho, Quốc ngữ và chữ Pháp, hoàn thành bằng Tiểu học (Primaire). Lúc 12 tuổi (1924), Ngài được cụ thân sinh đưa đến chùa Diệu Hỷ (Huế) để xuất gia và thụ Tiểu (Điệu). Với trí óc sáng tạo và lòng cần mẫn trong tu học, Ngài nhanh chóng nắm bắt kinh luật cơ bản dành cho chú Tiểu.

    Khi 16 tuổi (1928), Ngài nhập chúng tu học tại chùa Từ Quang dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Giác Bổn. Nhận thức được khả năng học tập xuất sắc của Ngài, Hòa Thượng Giác Bổn quyết định chuyển Ngài đến tu học tại chùa Trúc Lâm, nơi có Hòa thượng Giác Tiên làm trụ trì. Trong tòng lâm này, Ngài phát huy tố chất và sự cần mẫn trong học tập, vượt qua đồng học cùng lớp.

    Năm Canh Ngọ 1930, khi Ngài 18 tuổi, Hòa thượng Giác Tiên chính thức thế độ nhận Ngài làm đệ tử và truy cấp Sa Di giới, đồng thời ban pháp danh Tâm Nhất và pháp tự Mật Thể.

    Năm 1932, Hòa thượng Giác Tiên mời Đại lão Hòa thượng Phước Huệ từ chùa Thập Tháp Di Đà, tỉnh Bình Định đến chủ giảng Phật Học Đường tại chùa Trúc Lâm và Tây Thiên. Ngài được chọn làm đệ tử đặc cách tham gia Cao Đẳng Phật Học.

    Năm 1933, Ngài được mời làm giảng sư của Hội An Nam Phật Học và dạy tại trường Tiểu học Phật giáo của sơn môn Thừa Thiên.

    Năm 1935, với sự viên tịch của Hòa thượng Bổn Sư, hai năm sau do tuổi cao sức yếu của Hòa thượng Phước Huệ về Bình Định an tĩnh, Ngài đối mặt với một bước ngoặc quan trọng trong cuộc đời.

    Với khát khao, cùng hoài bão lớn lớn, Ngài quyết định bước vào con đường du học để mở rộng kiến thức. Ngài xin phép các sư huynh Mật Khế, Mật Nguyện và Mật Hiển để được tham gia Phật Học Viện Tiêu Sơn tại Trung Quốc và nghiên cứu học thuật dưới sự hướng dẫn của Hòa Thượng Tinh Nghiêm.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Năm 1938, Ngài đối mặt với chiến tranh Hoa – Nhật xảy ra, không cho phép Ngài cư tr Trung Quốc, không thể tiếp tục cư trú lâu dài. Ngài quyết định trở về Việt Nam và tiếp tục công việc giảng dạy cho hội An Nam Phật Học. Đồng thời, Ngài bắt đầu sự nghiệp trước tác bằng việc phiên dịch các tác phẩm hữu ích từ Trung Quốc.

    Ngài còn đóng góp vào nghiên cứu về đạo Phật và xuất bản các bài báo trong các tạp chí Phật giáo trong nước thời kỳ đó. Năm 1941, Ngài nhận được lời mời để giảng dạy tại Phật Học Đường Lưỡng Xuyên- Trà Vinh. Sau đó, Ngài hành trình đến Huế để thu thập tài liệu từ các Tổ đình ở Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên, Hà Nội và nhiều địa điểm khác để viết về Sử Phật giáo.

    Năm 1943, tác phẩm “Phật Giáo Việt Nam Sử Lược” của Ngài đã được Nhà xuất bản Tân Việt phát hành, nhận được sự đánh giá cao từ Quốc sư Phước Huệ và Trần Văn Giáp đề tựa.

    Cho đến năm 1944, khi Ngài 32 tuổi, Ngài mới thọ Cụ Túc giới tại giới đàn chùa Thuyền Tôn do Hòa thượng Thích Giác Nhiên làm Đàn đầu. Ngài được chọn làm thủ Sa Di và đứng đầu các giới tử. Đồng thời, Ngài được mời làm trú trì chùa Phổ Quang – Huế.

    Năm 1945, khi Cách Mạng Tháng Tám nổ ra, Ngài chủ động tham gia vào phong trào Phật giáo Cứu quốc ở Thừa Thiên – Huế. Tháng giêng năm 1946, trong cuộc tổng tuyển cử của Chính Phủ Lâm Thời, Ngài quyết định ứng cử ở Thừa Thiên và đã đắc cử làm đại biểu Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khóa đầu tiên. Điều này đánh dấu sự xuất hiện lần đầu tiên của một Tăng sĩ Phật giáo trong chính trường. Ngài cũng được mời làm Chủ tịch Ủy ban Phật giáo Cứu quốc tỉnh Thừa Thiên.

    Là người có chí nguyện lớn, Ngài quyết tâm cải tổ sơn môn và không ngừng hỗ trợ quá trình đổi mới chế độ Tăng già. Mặc dù gặp phải nhiều thách thức và va chạm, Ngài không bao giờ nản lòng. Ngài liên tục ôm ấp hoài bão cao cả để đưa Phật giáo phát triển, hòa nhập với thời đại và mở ra hướng đi mới cho hàng Tăng sĩ trẻ. Vì lý do này, Ngài đã viết và xuất bản nhiều tác phẩm nhằm thúc đẩy cách tân và mở rộng tầm nhìn cho các Tăng sĩ thời kỳ đó.

    Với bút pháp tài hoa và tâm hồn khoáng đạt, Ngài đã thu hút nhiều trí thức văn nhân ưu tú như Trần Văn Giáp, Phạm Quỳnh, và Khái Hưng, tạo nên những mối quan tâm giao sâu sắc. Những cuộc gặp gỡ này đã là cơ hội để tư tưởng Phật giáo kết nối với họ, thể hiện qua những tác phẩm xuất sắc như cuốn “Phật Giáo Việt Nam” của cụ Trần Văn Giáp, bài nghiên cứu về đạo Phật trong tạp chí Nam Phong của cụ Phạm Quỳnh, và “Hồn Bướm Mơ Tiên” của Khái Hưng.

    Năm 1947, khi mặt trận chống Pháp tại Huế tan vỡ, Ngài đã chia tay chư vị Phật tử và Tăng sĩ để tham gia vùng kháng chiến, theo cách mạng góp phần xây dựng phong trào Phật giáo tại miền Bắc.

    Thời kỳ viên tịch

    Sau hiệp định Genève vào năm 1957, Ngài quay về an trú ở Nghệ An. Tại đây, Ngài tiếp tục công việc phiên dịch và trước tác nhiều kinh sách.

    Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, nhiều tác phẩm này đã bị thất lạc, chỉ còn lại quyển sách “Thế giới quan Phật giáo”. Quyển sách này được in tại miền Nam vào năm 1967 do tạp chí Vạn Hạnh xuất bản.

    Năm 1961, Ngài mất tại Nghệ An vì bệnh, thọ 48 tuổi đời với 36 năm xuất gia làm Tăng sĩ.

    Tác phẩm tiêu biểu

    Các tác phẩm Ngài còn để lại đến nay tiêu biểu cho sự nghiệp đời Ngài như:

    • Việt Nam Phật Giáo Sử Lược.
    • Phật Học Dị Giản.
    • Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa.
    • Phật Giáo Khái Luận.
    • Phật Giáo Yếu Lược.
    • Cải Tổ Sơn Môn Huế.
    • Xuân Đạo Lý.
    • Mật Thể Văn Sao (do Lệ Như sưu tập).

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline