Hòa thượng Thích Mật Ứng (1889 – 1957)

Hòa thượng Thích Mật Ứng (1889 – 1957)
15:44 - 12.05.2024
Hòa thượng, thế danh Trần Văn Ứng, pháp danh Thích Mật Ứng, sinh năm 1889 tại xã Vị Xuyên, tổng Đông Mạc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, một địa phương nổi tiếng với nền Nho học, đồng thời là quê gốc của nhiều danh nhân văn chương, trong đó có nhà thơ Tú Xương.

    Thân thế

    Hòa thượng, thế danh Trần Văn Ứng, pháp danh Thích Mật Ứng, sinh năm 1889 tại xã Vị Xuyên, tổng Đông Mạc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, một địa phương nổi tiếng với nền Nho học, đồng thời là quê gốc của nhiều danh nhân văn chương, trong đó có nhà thơ Tú Xương.

    Từ khi lên 7 tuổi, Ngài đã học chữ Hán với cụ Tú Nam Thành và nhanh chóng khẳng định tài năng thông minh, thường hay nhận được các phần thưởng. Nhà Ngài gần chùa Cả, bản thân thường xuyên đến chùa để học hỏi và lắng nghe giáo lý của đạo Phật từ các sư cụ. Điều này khiến tâm hồn Hòa thượng phát triển và ngày càng tinh tiến, khởi tâm sanh ý xuất gia.

    Cơ duyên tu hành

    Khi Ngài lên 11 tuổi (Canh Tý, 1900), cụ Tú Nam Thành chuyển đi nhậm chức Huấn Đạo ở một tỉnh xa, và Hòa thượng buộc phải tìm minh sư mới. Trong một lễ giỗ Tổ tại chùa Cả, nơi quy tụ nhiều Hòa Thượng và Tăng Ni, Hòa thượng Tâm Nhân từ chùa Quảng Bá đã chú ý đến Ngài và quyết định làm minh sư, cho Ngài theo hầu cận.

    Gặp được minh sư tại chốn già lam danh tiếng, Hòa thượng Thích Mật Ứng chân thành tâm tu học. Năm 1905, Ngài được Hòa thượng Tâm Nhân truyền Sa Di giới, và khi 20 tuổi (Kỷ Dậu 1909), Ngài thọ Cụ Túc giới tại Đại giới đàn chùa Quảng Bá, do Hòa thượng Thông Toàn, chủ sự chùa Bà Đá (Linh Quang) giữ ngôi Đàn Đầu Hòa thượng và Hòa thượng Bổn sư Tâm Nhân làm Yết Ma A Xà Lê. Đây được xem là cột mốc quan trọng đánh dấu sự chân thành và tận tâm của Ngài trên cong đường tu hành, xiểng dương Phật pháp.

    Sau khi thọ giới, Hòa thượng tiếp tục tinh tấn tu hành và đắm chìm trong nghiên cứu sâu rộng về Tam Tạng kinh điển, hiểu biết đạo lý với sự sâu sắc. Ông duy trì tâm hồn ham học hỏi, không ngừng tìm hiểu với các bậc cao minh có kinh nghiệm và uyên thâm trong đạo đức. Ngài đặc biệt tìm đến Tổ Giám Đào Xuyên, tự Thông Mệnh, một đạo học có uyên thâm lâu dài và gương mẫu trong giới, để xin thụ huấn. Quãng thời gian mười năm học hành và tu tâm của Ngài được Sư Tổ đánh giá cao, và người thầy đặt nhiều kỳ vọng vào tương lai.

    Không chỉ tập trung vào việc hiểu sâu về giáo lý Phật Đà, Hòa thượng còn tham cứu vào Nho học tại các trung tâm nổi tiếng do các bậc danh nho trong vùng giảng dạy, như cụ Tú Thọ Vực ở Nam Định. Ông chinh phục Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bách Gia Chư Tử và làm sáng tỏ mọi chi tiết, cũng như suy nghĩ sâu xa về các điển cố văn chương. Hòa thượng trở thành một bậc thiền sư được kính trọng và ngưỡng mộ trong giới thiền gia.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Ngài trước đây là trụ trì tại động Kính Chủ, một điểm danh thắng nổi tiếng ở hạt Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Sau đó, khi đã bước sang tuổi năm mươi vào năm 1939 (Kỷ Mão), Ngài chuyển về kế thừa trụ trì tại chùa Quảng Bá. Trong khoảng thời gian từ năm 1935 đến trước Cách Mạng Tháng Tám, Ngài đã đóng góp một lượng công sức đáng kể cho phong trào chấn hưng Phật Giáo.

    Năm 1949, Hội Việt Nam Phật Giáo được tái lập, đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ. Trong năm đó, Hội Tăng Ni Chỉnh Lý Bắc Việt, do Hòa thượng Tố Liên thành lập, cũng được hình thành. Đến ngày 09 tháng 9 năm 1950, hội đổi tên thành Hội Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt, và trong năm 1951, Hòa thượng Mật Ứng được chọn làm Thiền gia Pháp chủ của hội.

    Sau khi Hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu (World Fellowship of Buddhists) được thành lập năm 1950, với trụ sở tại Colombo, thủ đô của Tích Lan, nơi mà Việt Nam là một trong những hội viên sáng lập, Đại Hội Phật Giáo Việt Nam đã được tổ chức tại chùa Từ Đàm từ ngày 06 tháng 5 đến ngày 09 tháng 5 năm 1951, với mục tiêu thống nhất Phật Giáo Tăng Già trên toàn quốc.

    Thời kỳ viên tịch

    Hòa thượng Mật Ứng, nhân danh Thiền Gia Pháp Chủ Hội Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt, đã dẫn đầu phái đoàn Tăng Ni tham gia Đại Hội và Đại Hội này cũng là nơi khởi nguồn cho việc thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, chùa Tường Vân, làm Hội chủ.

    Đến năm 1955, Hòa thượng Thiền Gia Pháp Chủ và Hội Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt đã phải tạm ngưng hoạt động để chuẩn bị cho giai đoạn mới của Phật Giáo. Ngài rút về chùa Quảng Bá, nơi yên bình tu niệm, làm cội gốc phúc lành cho Tăng Ni và tín đồ quy ngưỡng.

    Ngài viên tịch vào ngày 19 tháng 5 năm Đinh Dậu (1957), thọ 68 tuổi, để lại bảo tháp tại chùa Quảng Bá, trở thành một biểu tượng của một bậc cao Tăng đã dành cả đời cho sự phục vụ Phật pháp.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline