Thân thế
Hòa thượng, danh xưng Nguyễn Văn An, pháp danh Thích Pháp Hải, sinh ra vào năm Ất Mùi (1895) tại làng Thông Dong, quận Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc, hiện thuộc tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Văn Dá và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Tốt.
Ngay từ khi 8 tuổi, Ngài đã được gia đình hướng dẫn theo đạo Nho. Với sự tiến bộ trong học vấn và tính tình hòa nhã, khiêm cung, Ngài nhanh chóng thu hút sự khen ngợi và tình cảm của thầy cô và bạn bè.
Cơ duyên tu hành
Đến năm 17 tuổi (Nhâm Tý 1912), Ngài quyết định nhập môn Phật pháp, tìm về quê nhà Sa Đéc và quy y với Hòa thượng trú trì chùa Tây Hưng.
Năm 22 tuổi, sau khi Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Ngài tiếp tục hành trình tu học bằng cách đến cầu pháp với Sư tổ chùa Long Phước ở tỉnh Vĩnh Long, nơi Ngài gắn bó trong sáu năm. Khi 28 tuổi, Sư tổ Long Phước đã bổ nhiệm Ngài làm trú trì chùa Phước Sơn ở quận Trà Cú, tỉnh Trà Vinh.
Từ năm 1932, khi phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu sôi động tại Nam Kỳ dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Khánh Hòa, Ngài là một trong những thiền sư tích cực tham gia vào phong trào này.
Năm 1933 và 1934, Ngài, cùng với chư vị Hòa thượng Khánh Hòa, Khánh Anh, Huệ Quang, tổ chức Phật Học Đường Liên Đoàn Phật Học Xã tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, chùa Thiên Phước ở quận Trà Ôn và chùa Viên Giác ở Bến Tre. Tại các địa điểm này cùng với Hòa thượng Khánh Anh và Huệ Quang, Ngài đóng góp tích cực vào việc giảng dạy Phật pháp cho Tăng sinh. Sau hơn một năm, Liên Đoàn Phật Học Xã tan rã vì thiếu tài chánh.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm 1934, Ngài và chư vị Hòa thượng khác lại tổ chức Hội Lưỡng Xuyên Phật Học và thành lập Phật Học Đường Lưỡng Xuyên tại chùa Long Phước (Trà Vinh) do bà Dương Thị Liễu cúng cho hội.Ngài được mời làm trú trì và giáo sư giảng dạy cho Tăng Ni.
Lúc đó, Ngài đã bước sang tuổi 40 (Ất Hợi 1935), mặc dù sức khỏe yếu và nhiều bệnh tật, nhưng Ngài không bao giờ bỏ lỡ việc giảng dạy và chăm sóc các công việc Phật sự khác. Ngoài việc truyền đạt giáo lý, Ngài còn chủ trì công tác ăn uống và chăm sóc cho học đường. Sự tận tụy của Ngài đã tạo nên lòng kính trọng và biết ơn của toàn bộ cộng đồng học thuật.
Ngài đảm nhận vai trò trụ trì chùa Long Phước suốt sáu năm (1934-1940). Sau đó, khi Hội Lưỡng Xuyên Phật Học mở chi hội tại quận Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, và thành lập trụ sở tại chùa Hiệp Châu, Ngài được Ban Quản trị Chi hội cung thỉnh về làm trú trì tại chùa Hiệp Châu, giữ chức cương lĩnh cho các Phật sự của Chi hội. Ngài ổn định tại đây trong bốn năm (1944) cho đến khi Sư tổ chùa Long Phước ở Vĩnh Long viên tịch, khiến Ngài phải quay về và kế thừa trách nhiệm trú trì tại Tổ đình. Dưới sự giáo hóa tận tâm của Ngài, đám đông Tăng Ni và Phật tử Vĩnh Long hướng về Ngài một cách đông đảo.
Năm 1951 (Tân Mão), Giáo Hội Tăng Già Nam Việt được thành lập tại chùa Ấn Quang dưới sự lãnh đạo của Hòa thượng Khánh Anh. Các chi hội nhanh chóng hình thành khắp các tỉnh miền Nam, trong đó có tỉnh Vĩnh Long. Ngài được mời làm Trị sự trưởng của Tỉnh giáo hội. Tiếp theo, Hội Phật Học Nam Việt thành lập chi hội tại Vĩnh Long, Ngài lại được mời nhận chức Chứng minh Đạo sư kiêm Hội trưởng Tỉnh hội.
Dù đã vào tuổi cao và thường xuyên bị ốm, mỗi khi có hội nghị, Ngài vẫn tham gia toàn bộ từ đầu đến cuối. Có những buổi họp kéo dài đến khuya, và Ngài ngồi mệt mỏi ngất trên bàn chứng minh. Mặc dù mọi người đều thảo luận để Ngài nghỉ ngơi, Ngài luôn giữ tinh thần lên để khích lệ tất cả làm việc. Điều này là một công hạnh đặc biệt của Ngài, và Tăng Ni cùng Phật tử Vĩnh Long luôn nhớ mãi.
Thời kỳ viên tịch
Năm 1961, vì bệnh già, Ngài viên tịch tại chùa Long Phước, tỉnh Vĩnh Long, vào ngày mùng 6 tháng 8 năm Tân Sửu, hưởng thọ 66 tuổi, trong 49 năm sống với đạo. Kim quan của Ngài được Giáo Hội Tăng Già Nam Việt rước về cử hành lễ mai táng tại An Dưỡng Địa Bình Chánh, gần mộ Hòa thượng Khánh Anh, Tăng hữu chí cốt của Ngài, đã từng cùng nhau đóng góp tích cực cho phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Nam Kỳ.
Ngày Rằm tháng 2 năm Đinh Mùi (25-3-1967), nhân dịp vía Phật nhập Niết Bàn, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức lễ trà tỳ linh cốt của Tổ Khánh Anh và Ngài. Đến ngày 14 – 10 năm Mậu Thân (1968), Giáo Hội đưa một phần linh cốt của Ngài và Tổ Khánh Anh về tôn thờ tại chùa Long Phước, nơi Ngài đã trụ xứ cho đến khi viên tịch.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/