Thân thế
Hòa thượng, pháp danh Như Đắc, được biết đến với pháp tự là Giải Tường, pháp hiệu là Thiền Phương, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 41.
Ngài họ Dương, sinh năm 1879, tại làng Phong Thắng, huyện Tuy An, thuộc tỉnh Phú Yên, Trung Việt. Ngài lớn lên trong một gia đình Nho phong, lễ giáo, có lòng kính Phật và trọng Tăng.
Cơ duyên tu hành
Năm 1885, khi Ngài mới 7 tuổi, Ngài đã theo thân mẫu đến chùa để lễ Phật và quy y Tam Bảo với Tổ Pháp Tạng. Tổ đặt pháp danh cho Ngài là Như Đắc. Trong lúc đảnh lễ Tam Bảo, mắt Ngài không rời tượng Phật, mặt tràn đầy vui tươi và sùng kính. Tổ Pháp Tạng, nhìn thấy khí sắc như thế, biết rằng đã gặp người có túc thế thiện căn. Tổ đã tỏ ý với thân mẫu Ngài rằng nên cho Ngài xuất gia. Mẹ Ngài hoan hỷ đồng ý, và từ đó, chuẩn bị cho cuộc xuất gia của Ngài bắt đầu.
Ngài bước vào cuộc sống, nề nếp chốn thiền gia với nhiều cơ duyên thuận lợi. Trong thời gian này, Ngài nhận được sự hỗ trợ tích cực từ gia đình và đặc biệt là được thọ giáo trực tiếp từ Tổ Pháp Tạng, một bậc tu hành lừng lẫy với công hạnh to lớn thời bấy giờ. Điều này là niềm vinh dự lớn không chỉ đối với Ngài mà còn đối với gia đình Ngài. Ngài luôn tỏ ra xứng đáng với lòng tin yêu của Bổn sư và chuyên cần tu học. Trong thời gian chấp tác, Ngài không bao giờ làm buồn lòng Bổn sư và gia đình.
Chẳng bao lâu sau, Bổn Sư quyết định cho Ngài thọ Sa Di giới để khuyến khích sự tinh tấn. Đặc biệt, Ngài được Bổn sư tận dụng những thời điểm gần gũi hầu Thầy để đưa ra những bài trắc nghiệm về Phật học nhằm kiểm tra nhẹ nhàng khả năng hiểu biết của Ngài. Trong những lúc đó, Tổ thường đặt những câu hỏi chính xác tại những điểm yếu của Kinh, Luật, và Ngài luôn làm Bổn sư hài lòng. Nhờ khả năng biện luận và sự hiểu biết sâu sắc về giáo lý, Tổ Pháp Tạng tin rằng đệ tử thông minh này sẽ trở thành một đại diện xuất sắc cho Phật giáo trong tương lai.
Năm 1898, Ngài 20 tuổi, Tổ Pháp Tạng cho Ngài thọ Cụ Túc giới. Từ đây, Ngài đã luôn phát tâm mạnh mẽ, chuyên tâm tu học và sưu tầm diệu nghĩa kinh điển.
Những đóng góp cho Phật giáo
Sự học hỏi, tìm hiểu về con đường học Đạo không bao giờ là đủ với Ngài. Thường xuyên tạo ra những thắc mắc để đồng môn giải đáp hoặc thầy truyền đạt. Điều này giúp Ngài phát triển cách tiếp cận và sức tiến vượt trội hơn so với các bạn đồng môn. Bổn sư nhận thấy tài năng của Ngài và trao pháp danh là Giải Tường, hiệu Thiền Phương, đồng thời bổ nhiệm Ngài làm trụ trì Tổ đình Phước Sơn tại thôn Đồng Tròn, làng Phú Phong, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
Với việc tiếp Tăng độ chúng, Ngài thường sử dụng lời thâm thiết trong kinh luật để nhắc nhở chúng tu hành khi tiếp Tăng độ chúng. Với công đức quý báu đó, Ngài được Tăng chúng và Phật tử tôn trọng là Cụ Nhãn Tôn Sư.
Nhằm mở rộng phạm vi hoằng pháp, Hòa thượng Thích Thiền Phương lập Phật học đường gia giáo, tổ chức các khóa học liên tục, 3 tháng một khóa, thu hút Tăng Ni hiếu học từ mọi nơi. Nơi này đã đào tạo ra nhiều Tăng sĩ tài năng, sẵn sàng thừa kế truyền thống Phật giáo.
Không chỉ quan tâm đến việc đào tạo Tăng tài, Ngài còn chú trọng đến việc trùng tu tự viện, chùa chiền. Biết chùa nào bị hư hao sụp đổ, Ngài không chần chừ, dùng tất cả tâm lực và khả năng để tô bồi xây dựng các công trình, trong đó có hai ngôi chùa nổi tiếng Từ Quang và Bửu Sơn.
Hành trạng oai đức của Ngài thu hút lòng mến phục và uy danh lừng lẫy khắp Phật giáo Trung Việt thời bấy giờ. Chư Tôn đức từ xa gần thường tìm đến để thưa hỏi đạo tình và thỉnh ý Phật sự cần thiết.
Năm 1937, vì lòng mến tài và đức, Hội Phật Học Thừa Thiên (Huế) tặng Ngài chức Chứng minh Đạo sư cho toàn kỳ, truyền thọ quy giới và làm mô phạm cho tất cả Tăng Ni và thiện tín trong khắp Trung Việt.
Trong thời kỳ phôi thai của cuộc chấn hưng Phật giáo, Ngài đã đóng góp nhiều ý kiến thiết thực với chư Tôn đức có trách nhiệm và kỳ vọng nhiều cho tương lai Phật giáo. Là một bậc cao Tăng tuân thủ chuẩn hạnh, song sự cởi mở và tầm nhìn rộng lớn cũng là điểm mà Ngài luôn quan tâm. Ngài luôn mong muốn Phật giáo và tông môn có một nếp sống thiền gia đúng nghĩa.
Bởi Ngài đã và đang chia sẻ số phận đau khổ của đồng bào trong bối cảnh đất nước bị xâm lăng, đô hộ của thực dân. Vì thế, Ngài luôn có nhiều lo lắng về tiền đồ đạo pháp, mong muốn giáo huấn một đội ngũ kế thừa có khả năng đức độ, truyền bá giáo pháp để mọi nơi, mọi xứ đều được học hỏi và vượt qua đau khổ để tìm được niềm vui. Điều này là niềm hy vọng tha thiết của Ngài.
Ngài đã có công đào tạo những bậc Tăng tài, được tôn kính và đã đóng góp nhiều công lao cho Giáo Hội và cho cuộc hoằng hóa độ sinh, như Hòa thượng Phúc Hộ, Hòa thượng Phước Bình (Hành Trụ), Phước Trí, Phước Cơ, Phước Ninh…
Thời kỳ viên tịch
Khi thời kỳ hóa duyên đã mãn, Ngài ung dung thâu thần thị tịch vào ngày 10 tháng Â.L năm Kỷ Sửu (1949). Hưởng thọ 70 tuổi đời, 55 tuổi đạo.
Bảo tháp được xây dựng tại Tổ đình Phước Sơn, nơi mà Ngài đã sống và hoằng hóa trọn cuộc đời của một bậc cao Tăng, vang danh Phật giáo Phú Yên và tiêu biểu cho miền Trung nước Việt.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995