Hòa thượng Thích Trí Thiền (1882 – 1943)

Hòa thượng Thích Trí Thiền (1882 – 1943)
23:14 - 13.05.2024
Hòa thượng Thích Trí Thiền, thế danh là Nguyễn Văn Đồng, có pháp danh là Trí Thiền và pháp hiệu là Hồng Nguyện, sinh năm Nhâm Ngọ (1882) tại làng Vĩnh Thanh Vân, huyện Châu Thành, tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang). Ngài xuất thân từ một gia đình nông dân, con út của Cụ ông Nguyễn Văn Trinh và cụ bà Nguyễn Thị Trường, hai người đều gốc từ Cái Dầu, xứ Cao Lãnh, đã đến đây lập nghiệp và sinh hạ năm Ngài.

    Thân thế

    Hòa thượng Thích Trí Thiền, thế danh là Nguyễn Văn Đồng, có pháp danh là Trí Thiền và pháp hiệu là Hồng Nguyện, sinh năm Nhâm Ngọ (1882) tại làng Vĩnh Thanh Vân, huyện Châu Thành, tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang). Ngài xuất thân từ một gia đình nông dân, con út của Cụ ông Nguyễn Văn Trinh và cụ bà Nguyễn Thị Trường, hai người đều gốc từ Cái Dầu, xứ Cao Lãnh, đã đến đây lập nghiệp và sinh hạ năm Ngài.

    Cơ duyên tu hành

    Năm Nhâm Tý (1912) khi 30 tuổi, Ngài chọn con đường xuất gia, trở thành đệ tử của Hòa thượng Vĩnh Thùy tại chùa Thập Phương. Với bản tính cương trực, lòng chí hướng đại hùng, đạo nghiệp của Ngài ngày càng sáng tỏ. Hàng năm, Ngài hạ tu học trau giồi giới đức, du học từ tỉnh này sang tỉnh khác. Ngài tham gia đủ mọi đạo tràng và thường xuyên tịnh thất cấm túc để tham thiền, trải qua những khoảnh khắc khổ hạnh. Do tinh thần đạo nghiệp chuyên nghiệp, Ngài đã nhận được sự cảm đức và tôn trọng từ đời sống xã hội. Đặc biệt, người mộ Phật thường xin quy y thọ giới với Ngài vì đức tích của Ngài.

    Năm 1915, nhờ vào đạo hạnh đáng kính của Hòa thượng, bà Dương Thị Oán tặng cho Ngài một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời vua Gia Long. Hòa thượng khuyến giáo thập phương đóng góp để xây dựng lại ngôi chùa, biến từ mái tranh vách lá thành một kiến trúc lộng lẫy, và đổi tên thành chùa Tam Bảo.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Trong những năm tiếp theo, trên con đường hoằng pháp lợi sanh, Ngài đã thành công trong việc xây dựng nhiều ngôi chùa khác như Tam Bảo Hòa Thanh Tự ở Vĩnh Hiệp, Vĩnh Phước Tự ở Tà Niên, Bửu Hưng Tự ở Cầu Cà, Bờ He, Gò Đất, Phước Hưng Tự ở Ngăn Gừa, Tam Bảo Từ Tôn Tự ở Sóc Xoài, Tam Bảo Kỳ Viên Tự ở Hòn Quéo, Tam Bảo Long Sơn Tự ở Hòn Đất.

    Hòa thượng cũng là người hết lòng với công cuộc chấn hưng Phật giáo, ủng hộ và khích lệ Hòa thượng Khánh Hòa trong công tác này. Ngày 26-8-1931, hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học được thành lập, trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn gần chợ Cầu Muối (Sài Gòn).

    Ngài được mời làm cố vấn cho hội cùng với Hòa thượng Huệ Định, khi ấy Ngài 50 tuổi. Trong thời gian hoạt động cho hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, Ngài đã làm quen với một thiền sư trẻ tuổi có tư tưởng cấp tiến là Thiền sư Thiện Chiếu, và Ngài đã chịu ảnh hưởng nhiều từ vị sư này.

    Sau khi hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học đối mặt với sự lực cản của Ông Trần Nguyên Chấn và không thể khai giảng được học đường, các Hòa thượng uy tín như Thiền Sư Khánh HòaThiện Chiếu, và những người khác trong hội đã lần lượt rời khỏi để tìm kiếm phương hướng mới. Ngài cũng quyết định trở về chùa Sắc Tứ Tam Bảo ở Rạch Giá.

    Thiền Sư Thiện Chiếu, không đồng tình với chủ trương bảo thủ của các Hòa thượng trong hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, đã đi khắp các chùa để tìm đồng minh, nhưng không nơi nào đồng ý.

    Năm 1936, Sư xuống Rạch Giá để gặp Hòa thượng Trí Thiền, người mà Sư thấy có nhiều tư tưởng tiến bộ. Qua cuộc trao đổi, hai vị tỏ ra tâm đầu ý hợp, Ngài đồng ý thành lập hội Phật Học Kiêm Tế vào ngày 23-3-1937 và đầu năm 1938 cho xuất bản tạp chí Tiến Hóa. Ngài đảm nhận vị trí Chánh Tổng Lý của hội, và tu sĩ Phan Thanh Hòa trở thành Chủ bút của tạp chí.

    Thời kỳ kháng chiến chống Pháp

    Với tên gọi Phật Học Kiêm Tế và tạp chí Tiến Hóa, cả tổ chức và cơ quan ngôn luận của hội đều mang tính “cách mạng” trong Phật giáo. Tên Phật Học Kiêm Tế được giải thích như sau: “Đây không chỉ là một hội để học Phật, mà còn là một hội để thực hành kinh bang tế thế nữa.” Hội tổ chức ba lớp học miễn phí cho trẻ em nghèo, nhà chùa trả lương cho giáo viên.

    Hội cũng lập phòng thuốc phước thiện và bệnh xá để điều trị bệnh nhân. Điều độc đáo là hội lập một viện mồ côi ngay tại chùa, là lần đầu tiên trong cả nước. Ngoài ra, hội tổ chức cứu trợ nạn nhân bão lụt tại Rạch Giá, nuôi ăn từ 200 đến 300 người trong thời gian ngắn.

    Do tư tưởng tiến bộ như vậy, chùa Tam Bảo dần trở thành nơi tập trung của các cán bộ cách mạng, làm địa điểm sản xuất vũ khí và in truyền đơn phản đối chế độ thực dân Pháp. Hòa thượng cũng thường xuyên thăm các chùa tại Campuchia và Thái Lan để trao đổi đạo pháp với các vị sư ở những xứ này. Mỗi khi các chùa mở trường Hương, trường Kỳ, Ngài thường được mời đến để Chứng minh. Phật sự khắp các tỉnh như Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Châu Đốc,… Ngài đều tích cực tham gia.

    Để hỗ trợ hoạt động của hội Phật Học Kiêm Tế và báo Tiến Hóa, trong cuộc họp ngày 20-3-1938, Hòa thượng Thích Trí Thiền đã quyết định hiến tài sản của chùa, bao gồm chùa chiền, ruộng vườn, và một số tiền mặt lên đến 19.973 đồng (một số tiền lớn vào thời điểm đó), sau khi nhận được sự đồng thuận từ bổn Đạo của chùa.

    Cuối năm 1939, do sự nội gián của tên Tư Chà, cơ sở cách mạng tại chùa Tam Bảo đã bị vạ lây. Chùa trải qua cuộc khám xét của mật thám Pháp, tài liệu, truyền đơn và lựu đạn bị thu giữ. Hòa thượng Trí Thiền, Đại đức Thiện Ân cùng nhiều người khác bị bắt giữ.

    Thời kỳ viên tịch

    Ngài và Đại đức Thiện Ân sau đó bị đưa lên Sài Gòn để xét xử. Đại đức Thiện Ân bị kết án tử hình, còn Ngài bị kết án 5 năm biệt xứ và lưu đày tại Côn Đảo. Trong thời gian ở trong tù, Ngài thực hiện cuộc tuyệt thực kéo dài mấy ngày liền để phản đối chế độ lao tù khắc nghiệt. Ngày 26-6-1943 (Quí Mùi), Hòa thượng viên tịch, thọ 61 tuổi, đã dành hơn một thập kỷ lưu đày Côn Đảo.

    Từ khi Hòa thượng Thích Trí Thiền bị bắt, chùa Tam Bảo bị đóng cửa và không ai được phép tiếp cận. Sau Cách mạng tháng tám, chùa mới mở cửa lại. Phật tử và nhân dân tổ chức một lễ cầu siêu lớn tại chùa để cầu nguyện cho Hòa thượng Thích Trí Thiền và những đồng chí của Ngài đã hy sinh vì Đạo pháp và dân tộc. Tâm nguyện cao cả của Hòa thượng vẫn được ghi chép trong lịch sử, làm bừng sáng tên tuổi của Ngài trong phong trào chấn hưng Phật giáo và cả phong trào cách mạng kháng Pháp.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline