Thân thế
Hòa thượng Thích Từ Phong, hay Nguyễn Văn Tường, sinh năm Giáp Tý (1864) tại Sông Tra, thôn Đức Hòa Thượng, tổng Dương Hòa Thượng, huyện Bình Dương (nay là huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Ông là con út duy nhất trong gia đình nông dân có ba chị em.
Cơ duyên tu tập
Lúc 16 tuổi, ông từ chối kế hoạch hôn nhân của gia đình và quyết định xuất gia học Phật pháp. Nhận được sự chấp thuận, ông đến chùa Từ Lâm, làng Hiệp Ninh, châu thành Tây Ninh, để xin quy y thọ giới dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Minh Đạt (Yết Ma Lượng) là một dang Tăng khả kính đương thời.
Sau thời gian tu học ở chùa Từ Lâm, Hòa thượng Thích Từ Phong chuyển đến chùa Giác Viên ở thôn Bình Thới, tổng Tân Phong Trung, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định (nay thuộc phường 9, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh) để cầu pháp với Hòa thượng Hoằng Ân – Minh Khiêm. Ông nhận pháp danh Như Nhãn, pháp hiệu Từ Phong, theo chi phái Lâm Tế, nối nghiệp Tổ tông.
Bà Trần Thị Liễu ở xóm Chợ Gạo, làng Tân Hòa Đông, tổng Long Trung, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc quận 6, thành phố Hồ Chí Minh) xây dựng một cảnh chùa và sau đó nhờ Hòa thượng Hoằng Ân và Hòa thượng Thích Từ Phong đến trụ trì. Ông nhận lời và đổi tên chùa thành Giác Hải Tự, theo ý “Giác giả năng độ mê tân, Mê giả tắc trầm khổ hải”.
Những đóng góp cho Phật giáo
Năm 29 tuổi (Quý Tỵ 1893), sau mùa an cư kiết hạ tại chùa Giác Viên, Hòa thượng Thích Từ Phong được bổ nhiệm làm Yết Ma A Xà Lê. Với tâm huyết nghiên cứu, ông trở thành một Pháp sư tinh thông kinh điển, có khả năng biện luận xuất sắc, thu hút người nghe và được mọi người tôn kính.
Năm Kỷ Dậu (1909), chùa Long Quang ở Châu Thành – Vĩnh Long tổ chức lễ khai trương Hương, và nhân dịp này, Hòa thượng Thích Từ Phong được mời làm Pháp sư. Đây là một sự kiện trọng đại, và để tôn vinh ngày này, Ngài viết bài “Khải cáo phát minh văn”.
Sau đó, vào năm Nhâm Tý (1912), tại Tổ đình Giác Lâm, Hòa thượng Thích Từ Phong được tôn làm Hòa thượng Pháp sư. Sau mùa an cư, Ngài nhờ hiệu Quảng Đồng An ở Chợ Lớn đặt bản đá in bộ “Quy nguyên trực chỉ”, do Ngài diễn Nôm và Bổn sư Hòa thượng Hoằng Ân hiệu đính. Bài “Khải cáo phát minh văn” đã được in lên đầu sách. Đồng thời, khoảng năm 1915, Ngài soạn bộ “Tông cảnh yếu ngữ lục” nhằm nhắc nhở các Tăng Ni mới xuất gia cố gắng tu hành.
Năm Kỷ Mùi (1919), Hòa thượng Chánh Hậu tại chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho) tổ chức lễ khai trương Hương gia giáo, và Ngài lại được mời làm Pháp sư. Năm sau đó (Canh Thân 1920), Ngài lại được thỉnh làm pháp sư tại chùa Bửu Long, thôn Trung Tín, tổng Bình Trung, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, do bà Trần Thị Thọ một nhà hảo tâm chăm sóc mọi sở phí. Đây là chùa tư của bà Thọ. Sau mùa an cư, bà cúng ngôi chùa cho Ngài.
Ở Vĩnh Long, bà Trần Thị Sanh cũng cúng cho Ngài chùa Từ Lâm. Ngoài ra, một số Phật tử khác cũng cúng cho Ngài ở các chùa An Thạnh, Giác Quang, Linh Phong, Phú Thới, và nhiều tự viện khác, tổng cộng lên đến khoảng 20 ngôi.
Ngài được biết đến không chỉ với trí tuệ đạo đức và học vấn uyên bác, mà còn với tài hùng biện. Điều này đã thu hút sự quan tâm của một số người Pháp, như Ông Lamacs và Ông Doumergue, cả hai đều từng đến tham vấn Ngài và tôn Ngài như một bậc thầy. Ngài còn được mời sang Phom Pênh thuyết pháp bởi Hoàng gia Campuchia.
Trong giai đoạn 1920-1925, khi chùa Từ Lâm trở nên chật hẹp, Ngài quyết định xây dựng một ngôi chùa mới tại Gò Kén, Thôn Thái Hiệp Thạnh, gần châu thành Tây Ninh. Ngôi chùa này mang tên Từ Lâm, là sự tuyên dương công nghiệp của Thầy Tổ mình. Ngài cũng cải táng hài cốt Sư phụ thiền sư Minh Đạt và xây tháp tôn thờ. Năm 1926, khi đạo Cao Đài thành lập ở Tây Ninh, Ngài đồng ý cho mượn chùa Từ Lâm để xây đàn cầu cơ, một hành động nhân văn và tôn trọng đạo đức tôn giáo.
Bấy giờ, các tự viện ở Nam Bộ thường hòa nhập, liên kết thành một tổ chức mạnh mẽ, gọi là Hội Lục Hòa, với hình thức hội họp luân phiên tại các chùa khác nhau, nhằm tạo ra một không khí đoàn kết, khích lệ phong trào chấn hưng Phật giáo. Hòa thượng Thích Từ Phong thường được mời làm Pháp sư thuyết giảng trong những sự kiện này, góp phần làm cho Hội Lục Hòa trở thành một địa điểm quan trọng của Phật giáo Nam Bộ.
Ngày 26-8-1931, nhờ sự tích cực của Hòa thượng Khánh Hòa, Thầy Thiện Chiếu và nhiều Hòa thượng, Tổ đình, cùng với sự hỗ trợ từ một số Phật tử tâm huyết, Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học ra đời tại chùa Linh Sơn, gần chợ Cầu Muối (Sài Gòn). Trong thời kỳ này, Hòa thượng Thích Từ Phong đang trụ trì chùa Giác Hải và được bầu làm Chánh Hội Trưởng. Tuy nhiên, sau đó, hội gặp khó khăn do sự ngăn trở của một số cư sĩ.
Năm 1933, các Hòa thượng Khánh Hòa, Từ Phong, Chánh Tâm, Tâm Quang, Khánh Anh, Huệ Quang chấp nhận khó khăn và rút về miền Tây để thành lập Phật Học Đường lưu động, được biết đến với tên gọi Liên Đoàn Phật Học Xã. Mỗi chùa địa phương lưu động mở lớp học 3 tháng, thường thỉnh Ngài đến giảng dạy, làm cho niềm tin và tri thức Phật giáo lan tỏa.
Tuy Liên Đoàn Phật Học Xã sau đó phải đối mặt với khó khăn tài chánh và tan rã, nhưng năm 1934, Hội Lưỡng Xuyên Phật Học đã được thành lập, khóa đầu tiên do Hòa thượng An Lạc chùa Vĩnh Tràng làm Hội Trưởng, và Hòa thượng Thích Từ Phong làm Chứng minh Đạo sư. Năm 1935, hội xuất bản tạp chí Duy Tâm và mở trường Phật học, góp phần lớn vào việc bảo tồn và phát triển tri thức Phật giáo.
Thời kỳ viên tịch
Không chỉ là một bậc Pháp sư hoạt động tích cực trong chánh pháp, Hòa thượng Thích Từ Phong còn là một hành giả tận tâm khó ai sánh kịp. Hàng ngày, Ngài tỏ ra như một người tu hành đích thực, không ngừng tri danh niệm Phật một muôn biến (10.000 lần), không bao giờ nghỉ ngơi để lo lắng cho bản thân, và luôn chấp nhận sự yếu đuối của tuổi già mà không hề để ý đến sự chăm sóc cho bản thân.
Cuộc hành trình của Hòa thượng Thích Từ Phong, một nhà sư tài năng, tiếp tục được ghi chép và đánh giá cao. Đến năm Mậu Dần (1938), vào một ngày đẹp trời, Hòa thượng Thích Từ Phong viên tịch tại tuổi 74, với hơn 50 năm tu hành và phục vụ chánh pháp. Chùa Từ Lâm ở Gò Kén, nơi Ngài đã dành nhiều năm công sức chấn hưng Phật giáo và đào tạo Tăng tài, trở thành điểm nhận nhục thân Ngài. Để tôn vinh công đức của Ngài, đồ chúng xây tháp thờ tại chùa Từ Lâm và chùa Giác Hải là hai trú xứ Ngài kiến tạo và dừng chân lâu nhất.
Tham khảo
- Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995