Hòa thượng Tuệ Tạng – Thích Tâm Thi (1889 – 1959)

Hòa thượng Tuệ Tạng – Thích Tâm Thi (1889 – 1959)
15:25 - 12.05.2024
Hòa Thượng, hay còn gọi là Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, ra đời vào năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ của Ngài là ông Trần Tín, tự Phúc Châu, và thân mẫu là bà Vũ Thị Tú, hiệu Diệu Hòa.

    Thân thế

    Hòa Thượng, hay còn gọi là Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, ra đời vào năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ của Ngài là ông Trần Tín, tự Phúc Châu, và thân mẫu là bà Vũ Thị Tú, hiệu Diệu Hòa.

    Cơ duyên tu hành

    Ngay từ khi còn nhỏ, Ngài đã thường xuyên theo mẹ vào chùa để lễ Phật. Sư Cụ trụ trì nhận thấy phẩm cách và tư duy đặc biệt của Ngài, nên đã rất mến mộ và quyết định truyền đạo cho Ngài. Lúc 14 tuổi (1903), với sự chấp thuận của song thân, Ngài quyết định xuất gia và trở thành đệ tử của Hòa thượng tại chùa Phúc Lâm, thuộc xã Quần Phương Thượng. Ngài chăm chỉ học tập và tận tâm lễ bái, tinh tấn trong mọi công việc.

    Năm 1905, Ngài 16 tuổi, Ngài được Bổn sư trao truyền Sa Di giới. Mặc dù tuổi còn trẻ, nhưng với tinh thần nghiêm túc và phong thái quyết đoán, Ngài được Sư Tổ giao trọng trách trụ trì chùa Cồn, ấp Văn Lý, Nam Định.

    Vào năm 1909, 20 tuổi, Ngài thọ Thinh Văn giới tại Đại giới đàn chùa Phúc Lâm. Khi Bổn sư viên tịch sau hai năm, Ngài vân du tứ phương tầm Sư học Đạo, từ chùa Tổ đình Vĩnh Nghiêm đến Tế Xuyên thiền viện… Tại mọi đạo tràng, Ngài đều được thầy trò yêu quý, và Ngài dành thời gian tinh tấn tu học.

    Nổi tiếng với sự chú trọng, chuyên tâm vào Luật Tạng trong Tam Tạng giáo điển, Ngài là người nhớ và tuân thủ Luật một cách tận tâm. Ngoài ra, kiến thức ngoại khoa của Ngài như Nho, Lão, Lý số cũng được trau dồi một cách sâu sắc. Ngài cũng là một nhà văn thơ phú uyên bác tinh thông.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Năm 1920, Ngài và Sư Tổ chùa Dương Lai, chùa Duyên Bình, chùa Quế Phương tỉnh Nam Định thành lập Hội Tiến Đức Cảnh Sách, nhằm thâu nhận Tăng Ni có phẩm hạnh, không phân biệt sơn môn hay hệ phái. Đây là động thái lớn để định hình tương lai của Phật pháp. Hội có trụ sở tại chùa Quế Phương, với Sư Tổ làm Hội trưởng và Ngài giữ chức giáo sư Luật học.

    Năm 1934, khi phong trào chấn hưng Phật giáo bùng nổ ở miền Bắc, Ngài cùng với Tổ chùa Trung Hậu, chùa Bằng Sở, hai Hòa thượng Tố LiênTrí Hải và cư sĩ Nguyễn Hữu Kha thành lập Hội Bắc Kỳ Phật Giáo. Trụ sở của hội được đặt tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.

    Năm 1935, Ngài nhận nhiệm vụ làm Giám viện chùa Quán Sứ, chịu trách nhiệm quản lý mọi hoạt động trong chùa.

    Năm 1936, trường Tăng Học Bắc Việt được thành lập tại chùa Sở. Tổ Bằng Sở giữ chức Đốc giáo, còn Ngài là Phó Đốc giáo kiêm giáo sư Luật học. Trong giai đoạn Tổ Trung Hậu và Bằng Sở liên tục viên tịch từ năm 1940 đến 1942, Ngài đảm nhận trách nhiệm lớn: Giám quản kiêm Đốc giáo toàn bộ trường.

    Trong những năm 1941-1945, do chiến tranh Pháp – Nhật tác động mạnh mẽ tại Việt Nam, Ngài đã dẫn đầu việc di chuyển trường Tăng Học Quán Sứ từ Bồ Đề đến Trung Hậu, rồi Cao Phong, Hương Hải, và cuối cùng trở về Quán Sứ. Dù gặp nhiều khó khăn và thiếu thốn trong thời kỳ chiến tranh, Ngài vẫn hướng dẫn Tăng sinh vừa sản xuất (lương thực tiêu dùng) vừa tiếp tục tu học.

    Năm 1945, Ngài đảm nhận vai trò Hội trưởng Hội Việt Nam Phật Giáo, kiêm chánh trụ trì chùa Quán Sứ. Mặc dù vậy, Ngài vẫn tiếp tục giữ chức trụ trì chùa Quy Hồn, nơi Ngài đã tích tụ công đức và đóng góp xây dựng. Vào cuối năm này, Nhận thấy sức khỏe giảm sút do tuổi già, Ngài ủy thác mọi công việc cho các đệ tử trẻ tuổi như Tố Liên, Trí Hải và trở về chùa Cồn ở Nam Định để tập trung tu dưỡng. Ngài rất mến trọng đạo, nơi Tăng chúng từ nhiều vùng miền đều đến học đạo từ năm 1946 đến 1949, với hơn sáu mươi vị Tăng Ni tham gia đạo tràng.

    Năm 1950, Hội Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt kính thỉnh Ngài trở về chùa Quán Sứ để giữ chức Đốc giáo của Trường Tăng Học Bắc Việt, đồng thời kiêm nhiệm chức Trưởng tòa kiểm duyệt Giáo lý Bắc Việt. Cùng lúc, Ngài còn chấp nhận trở thành Chứng minh Đạo sư cho Hội Việt Nam Phật Giáo.

    Năm 1951, theo yêu cầu, sở nguyện của Phật tử ở thành phố Nam Định, Ngài đồng ý đảm nhận trách nhiệm trụ trì chùa Vọng Cung. Trong năm này, Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập, với trụ sở tại chùa Từ Đàm Huế, và Hòa thượng được vinh dự nhận ngôi Chứng minh Đạo sư cho Tổng Hội.

    Năm 1952, đại biểu Tăng Ni từ khắp cả nước tập trung tại chùa Quán Sứ từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9 để thảo luận và duyệt định “Quy chế Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc” do ba Giáo Hội Bắc Trung Nam thảo luận, đồng thời bầu ra Ban Tổng Trị Sự Trung Ương.

    Ngài đã được Đại biểu tất cả các trường phái tôn vinh, đưa lên vị trí Thượng Thủ Tăng Già Toàn Quốc vào ngày 7-9-1952, trở thành thạch trụ đoàn kết cho tất cả Tăng tín đồ trên khắp đất nước. Khi đó, Ngài đã 63 tuổi.

    Năm 1953, Ngài tự soạn và công bố “Lá Tâm Thư,” một tác phẩm đại ý kêu gọi lòng đồng lòng của Tăng tín đồ trên toàn quốc để hồi sinh Phật giáo, một tinh thần giống như thời kỳ lịch sử Lý, Trần xưa.

    Thời kỳ viên tịch

    Từ năm 1954 trở đi, Ngài rút về Nam Định để tập trung vào tu dưỡng và tìm kiếm bình yên tâm hồn. Tuy nhiên, nhưng luật vô thường cuối cùng cũng tới, và ngày 3 tháng 4 năm Kỷ Hợi (tức là 10-5-1959), Ngài quyết định rời bỏ thân thể tại Vọng Cung để nhập diệu về Vô Ưu quốc. Công đức tu trì của Ngài đã kéo dài suốt 50 năm, chấm dứt khi Ngài hạ lạp vào tuổi 70.

    Trong suốt nửa thế kỷ từ khi còn trẻ đến những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, Ngài luôn duy trì sự nghiêm túc với giới luật và nỗ lực hoằng pháp để độ sinh và đào tạo Tăng tài, bất kể khó khăn hay thuận lợi. Ngài được biết đến như một Luật sư uyên thâm, là hình mẫu tiêu biểu của Luật Tông Việt Nam, với pháp âm của mình là nền tảng vững chắc cho mạng lưới chính pháp được truyền đạt như di huấn của Phật Tổ.

    Tác phẩm tiêu biểu

    Bút tích và tác phẩm Ngài đã soạn và dịch giải để lại :

    • Tại gia tu hành.
    • Kinh Phạm Võng giải.
    • Sa Di luật.
    • Lá tâm thư.

    Và nhiều sách Luật tạng mà Ngài đã giảng dạy ghi chú, tâm truyền cho những học trò kế tiếp đã là danh Tăng luật sư nổi tiếng sau này như: Hòa thượng Thiện HòaKim Cương TửBình Minh.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline