Hòa Thượng Vạn An – Thích Chánh Thành (1872 – 1949)

Hòa Thượng Vạn An – Thích Chánh Thành (1872 – 1949)
23:05 - 13.05.2024
Hòa thượng, thế danh Phạm Văn Vịnh, pháp danh Đạt Thới, pháp hiệu Chánh Thành, sinh năm Quý Dậu (1872) tại làng Tân Nhuận Đông, tỉnh Sa Đéc, nay là tỉnh Đồng Tháp, trong một gia đình Nho học kiêm lương y đương thời.

    Thân thế

    Hòa thượng, thế danh Phạm Văn Vịnh, pháp danh Đạt Thới, pháp hiệu Chánh Thành, sinh năm Quý Dậu (1872) tại làng Tân Nhuận Đông, tỉnh Sa Đéc, nay là tỉnh Đồng Tháp, trong một gia đình Nho học kiêm lương y đương thời.

    Từ thuở nhỏ, Ngài được phụ thân hướng dẫn dạy bảo theo đường Nho học. Sự kết hợp giữa thiên tư đĩnh ngộ và sự chăm sóc chu đáo của nghiêm đường đã khiến Ngài nổi tiếng với thành tích học giỏi và thông minh xuất chúng, đồng thời nhận được sự khen ngợi từ mọi người.

    Cơ duyên tu hành

    Năm Ngài 11 tuổi (1883), phụ thân, thân mẫu của Ngài lần lượt qua đời, để lại cuộc sống đầy đau thương cho Ngài. Nhận thức sâu sắc về sự vô thường của tạo vật, Ngài quyết định xuất gia đầu Phật. Ngài đến chùa Hội Phước ở Rạch Nha Mân, thị xã Sa Đéc, để đảnh lễ Sư Tổ Liễu Ngọc – Châu Hoàn Thượng Nhân và xin được nhận lễ nhập học.

    Với bản chất thông minh và quyết chí tu học, Ngài không chỉ dành thời gian cho thời công phu hàng ngày và chấp tác phụng sự Bổn sư mà còn chú trọng vào nghiên cứu kinh điển, tìm hiểu những điều cao siêu thâm thúy của Phật pháp. Nhờ vào sự cống hiến này, cuộc hành trình tu học của Ngài ngày càng tiến triển, giới luật càng trở nên tinh nghiêm, và Ngài nhanh chóng trở thành một vị Pháp sư tài đức vẹn toàn, được sự tôn trọng và yêu mến từ các bậc tôn túc và đại chúng.

    Vào năm 1895, khi 23 tuổi, Ngài được Sư tổ Liễu Ngọc truyền trao Chánh pháp Nhãn tạng với bài kệ như sau:

    Đạt đắc Bồ Đề trí huệ khai
    Thới nhiên tâm địa xuất trần ai
    Chánh pháp tạng trung chơn thật nghĩa
    Thành năng tham thấu tức Như Lai.

    Tư Chỉ tạm dịch:

    Đắc quả Bồ Đề trí huệ khai
    Hoát nhiên tâm địa vượt trần ai
    Trong lòng chánh pháp chơn thật nghĩa
    Năng sở vô nghì rõ Như Lai.

    Tác phẩm

    Trong cuộc đời hoằng pháp lợi sanh của Ngài, ngoài việc tham gia giảng dạy ở các Phật học đường, Ngài có công lớn trong việc diễn Nôm một số kinh lưu hành ở miền Nam thời bấy giờ. Các tác phẩm của Ngài hiện còn lưu giữ tại Tổ đình Vạn An (Sa Đéc) gồm có:

    Kinh

    • Di Đà Sớ Sao.
    • Pháp Hoa
    • Pháp Bảo Đàn.
    • Phật Tổ Tam Kinh
    • Quy Nguyên Trực Chỉ.
    • Long Thơ Tịnh Độ.

    Luật

    • Tứ Phần Như Thích
    • Bồ Tát Giới Kinh
    • Tỳ Kheo Giới Kinh.
    • Sa Di Sớ.
    • Tỳ Ni Hương Nhũ.

    Sám

    • Quy Mạng
    • Khể Thủ v.v…

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Năm 1896, Sư Tổ Liễu Ngọc bổ nhiệm Ngài làm trụ trì chùa Vạn An ở xã Tân An Đông, Sa Đéc. Từ đó, Tăng tín đồ thường tôn kính gọi Ngài là Hòa thượng Vạn An.

    Sau khi Bổn sư Liễu Ngọc thị tịch vào năm 1902, Ngài đến chùa Linh Thứu ở Mỹ Tho để xin y chỉ với Sư tổ Hải Huệ – Minh Thông và được ban pháp hiệu Như Vịnh – Diệu Liên.

    Năm 1914, Ngài tích cực tham gia phong trào yêu nước chống thực dân Pháp, đồng thời bị người Pháp bắt giam 9 tháng. Tuy nhiên, do không có chứng cớ, Ngài được trả tự do.

    Năm 1934, khi phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ phát triển mạnh, Ngài được mời làm Pháp sư tham gia giảng dạy tại Hội Lưỡng Xuyên Phật Học ở Trà Vinh và mở Phật học đường để đào tạo Tăng tài.

    Sau khi Phật Học Đường Lưỡng Xuyên gặp khó khăn tài chánh và phải đóng cửa vào năm 1937, Ngài quay về chùa Vạn An để mở trường gia giáo, tiếp tục truyền đạt giáo lý cho Tăng sinh. Năm 1940, Ngài mở Phật học Ni trường ở Tây đường chùa để đào tạo Ni chúng.

    Năm 1945, Liên đoàn Phật giáo Cứu quốc Nam bộ được thành lập, và Ngài, mặc dù đã 73 tuổi, vẫn hăng hái lãnh nhiệm vụ cố vấn, động viên tinh thần yêu nước cho hàng ngũ Tăng tín đồ ở huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc.

    Thời kỳ viên tịch

    Năm 1947, khi chiến tranh bùng nổ và vùng nông thôn bị càn quét, chùa Vạn An mất an ninh. Ngài và các đệ tử buộc phải lánh cư về chùa Hội Phước.

    Vào năm Kỷ Sửu (1949), Ngài lâm bệnh nhẹ và thị tịch vào ngày 25 tháng 6, trụ thế 77 năm, 54 hạ lạp.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline