Lăng Thoại Ngọc Hầu (Sơn Lăng – Châu Đốc, An Giang)

Lăng Thoại Ngọc Hầu (Sơn Lăng – Châu Đốc, An Giang)
Thông tin cơ bản

Tên gọi và vị trí địa lý

Lăng Thoại Ngọc Hầu còn gọi là Sơn Lăng, nằm ở sườn núi Sam xưa thuộc xã Vĩnh Tế, ngày nay thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Lăng nằm trong quần thể di tích Núi Sam (Châu Đốc), đây là một công trình di tích lịch sử, lăng mộ tiêu biểu thời nhà Nguyễn ở Nam Bộ và là nơi thờ vị tướng Thoại Ngọc Hầu, một tướng lĩnh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Để di chuyển đến Lăng, có thể di chuyển bằng máy bay, bay đến Sân bay Cần Thơ, sau đó đi bằng xe hơi từ Cần Thơ đến Châu Đốc, tiếp tục thuê xe hoặc sử dụng dịch vụ taxi để đến Lăng. Ngoài ra còn có thể di chuyển bằng phương tiện xe buýt, xe khách hoặc sử dụng dịch vụ thuyền từ Châu Đốc qua sông Hậu Giang đến núi Sam để đến lăng Thoại Ngọc Hầu.

Lịch sử

Theo tương truyền Lăng được do chính ông Thoại Ngọc Hầu đứng ra chỉ huy thi công và trang trí kiến trúc. Trước đó khu lăng mộ Cù Lao Dài (Cù Lao – Thanh Bình) của huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, đây là khu lăng mộ của mẹ ông là bà Nguyễn Thị Tuyết, khu lăng mộ này cũng là do ông xây dựng và được hoàn thành vào năm 1828.

Xét về kiến trúc và kiểu dáng, lăng Thoại Ngọc Hầu có nhiều nét tương đồng với khu lăng mộ Cù Lao Dài, tuy chưa có thể xác định được chính xác nhưng ta có thể đoán đây đều là kiến trúc do ông xây dựng. 

Tiểu sử Thoại Ngọc Hầu

Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thuỵ (1761 – 1829) quê tại phường An Hải, thành phố Đà Nẵng, tuy nhiên có tài liệu khác lại cho rằng tên thật của ông là Nguyễn Văn Thoại sinh ra tại làng An Hải, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (cũ), ngày nay thuộc quận Sơn Trà, Đà Nẵng. 

Theo bài Lăng mộ Thời Nguyễn ở Nam Bộ: kiến trúc và trang trí cho biết: “Căn cứ vào gia phả và một số tư liệu khác cho biết, năm 1777 ông gia nhập quân đội của Nguyễn Ánh tại khu Ba Giồng (nay là thuộc khu vực huyện Châu Thành – Tiền Giang). Tháng 3 năm 1785 ông theo phò Nguyễn Ánh sang Xiêm. Năm 1791 giữ chức Thống binh cai cơ chi Tiền du dinh Chấn Võ giữ cửa biển Tắc Khái (Vũng Tàu). Năm 1792 sung chức Phó sứ sang Xiêm lần thứ nhất. Năm 1796 sung Phó sứ sang Xiêm lần thứ 2. Năm 1798 giữ chức Chánh Tiền chỉ dinh Trung thủy quản đạo Thanh Châu, sau đó được phong là Phó dinh Hậu thủy. Năm 1799 sung phó sứ đem quốc thư sang Xiêm lần thứ 3. Cùng năm Ông được giữ chức Cai cơ và làm Khâm sai thượng đạo tướng quân. Trong khoảng những năm 1802-1809 Ông công tác tại Bắc Thành, Trấn thủ Lạng Sơn. Năm 1810 Nguyễn Văn Thụy làm Trấn thủ Định Tường. Năm 1813 Nguyễn Văn Thụy bảo hộ Chân Lạp. Năm 1817 Nguyễn Văn Thụy giữ chức Chưởng cơ, lãnh Trấn thủ Vĩnh Thanh, thực hiện đào kênh Tam Khê và được vua ban tên sông là Thoại Hà. Tháng 9 năm 1818 Ông được phong làm Thống chế, lại sai bảo hộ nước Chân Lạp lần 2. Tháng 12, do mâu thuẫn với quốc vương Cao Miên, Gia Long triệu Bảo hộ Chân Lạp là Nguyễn Văn Thụy về thành Gia Định. Tháng 12 năm 1820, Nguyễn Văn Thụy lại bảo hộ nước Chân Lạp lần thứ 3. Sau một thời gian ông được lệnh rút về giữ đồn Châu Đốc, kiêm quản Hà Tiên và đến tháng 3 năm 1821 lại lĩnh chức Bảo hộ quốc ấn nước Chân Lạp lần thứ 4, kiêm lý việc biên vụ Hà Tiên. Trong những năm 1919 – 1924 ông thực hiện chỉ huy đào kênh Vĩnh Tế và được vua ban tên con kênh là Phu nhân của ông – bà Châu Vĩnh Tế. Tháng 6 năm 1829, Thống chế lĩnh ấn bảo hộ nước Chân Lạp, Án thủ thành Châu Đốc kiêm lĩnh biên vụ Hà Tiên là Nguyễn Văn Thụy chết. Vua Minh Mệnh tặng chức Đô thống, gia thưởng 1.000 quan tiền, 5 cây gấm Tổng, 10 tấm lụa, 30 tấm vải (Quốc sử quán triều Nguyễn 2007)”.

Ông đã đóng góp công sức và có nhiều công lao lớn cho triều Nguyễn, ông khai phá đất đai, lập dân xã, đào kênh, hoạt động khuyến khích thúc đẩy sản xuất cho nhân làng được phong tước Hầu, gọi là “Thoại Ngọc Hầu”. 

Các công trình tiêu biểu của Ông để lại: Kênh Thoại Hà (dài khoảng 30 km); Kênh Vĩnh Tế (dài khoảng 90 km); Lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế; Lộ Núi Sam-Châu Đốc (dài 5 km). 

Sau khi ông qua đời ông được triều đình và nhân dân an táng tại Núi Sam (Châu Đốc, An Giang). 

Kiến trúc

Lăng Ngọc Thoại Hầu được xây dựng ở sườn Núi Sam, quay về hướng Bắc, đối diện với Miếu Bà Chúa Xứ. Tổng thể kiến trúc lăng có chiều rộng 36,5m, chiều dài 46,6m, các kiến trúc trong lăng: cổng, các khu mộ, nhang án, bệ thờ, có tường thành bao bọc xung quanh, tất cả các kiến trúc trong lăng được sắp xếp và thiết kế cân đối, hài hòa. 

Cổng lăng gồm 2 lối ra vào ở hai bên, 2 cửa lớn theo kiểu lăng tẩm của các vua Nguyễn, hai bên có hai hàng liễn đối, mỗi cổng được xây dựng từ hai cột trụ lớn đúc xi măng dày tạo thành kiến trúc cổng vững chãi. Lối ra vào làm cửa mái vòm, phía trên được đúc khối bắc ngang hai cột trụ có khắc tên “Lăng Thoại Ngọc Hầu”, trên cùng gắn hình bán nguyệt. 

Ở phía trước cổng là kiến trúc nhà bia, bên trong có đặt bản sao tấm bia “Thoại Sơn” do Đại lão Hòa thượng chùa Tây An Nguyễn Thế Mật dựng vào đầu thế kỷ XX. Bia này gồm hai mặt: mặt trước là bia thần vị của Thoại Ngọc Hầu và hai bà phu nhân, mặt sau là bản sao bia Thoại Sơn bằng chữ Hán từ bản gốc, ở bên cạnh còn có những tấm bia có kích thước nhỏ hơn. 

Qua cổng là khoảng sân rộng, ở đây có các ngôi mộ với các hình dáng khác nhau, đây là mộ của những tướng sĩ đã hy sinh trong quá trình đào kênh Vĩnh Tế, được ông quy tụ cả về đây chôn cất. Chính giữa là khu mộ của ông Thoại Ngọc Hầu, bên phải là mộ của bà chính thất nhất phẩm phu nhân Châu Thị Tế, nằm kế bên là mộ của bà thứ Diệc phẩm phu nhân Trương Thị Miệt. 

Các phần mộ được xây dựng từ hợp chất kết hợp cùng đá ong, mô phỏng theo kiến trúc tẩm điện, cấu trúc nhà hình chữ nhật, mái làm ngói giả dạng ống, đều được khắc các dòng chữ Hán ở hai bên. Ngôi mộ của Thoại Ngọc Hầu có kết cấu 2 tầng 8 mái, cao khoảng 2,5m, có trang trí hoạ tiết hoa văn với đề tài: cây lá hóa long, chim phượng, bát bảo, hoa văn hình học, con cù mang tính điển hình trong trang trí thời Nguyễn. Còn phần mộ của hai người vợ của ông có kết cấu dạng 1 tầng và trang trí đơn giản hơn. 

Qua lăng đi lên dãy bậc thềm phía trên là đền thờ ông Thoại Ngọc Hầu, xây trên nền đất cao, đền được dựng để tưởng nhớ công lao của ông. Phía bên trong ở chính giữa ngay cửa ra vào là tượng bán thân của ông Thoại Ngọc Hầu cao khoảng 2m.

Trong đền còn có những bức hoành phi, liễn đối, văn bia, văn tế, những áng văn thơ, các kiến trúc trong đền được trang trí chạm khắc tinh xảo và cầu kì, để ghi lại những công đức của ông. 

Xếp hạng 

Lăng Thoại Ngọc Hầu là một trong những thắng cảnh nổi tiếng tại núi Sam, là điểm du lịch, khám phá lịch sử văn hoá ấn tượng để du khách trong và ngoài nước đến tham quan. 

Hằng năm, vào ngày giỗ ông, nhân dân từ mọi nơi đổ về lăng Thoại Ngọc Hầu để tưởng nhớ công lao và sự nghiệp của ông. Năm 1980 Lăng Thoại Ngọc Hầu được xếp hạng Di tích quốc gia.

Tài liệu tham khảo

  1. Đào Ngọc Cảnh -Trương Thị Kim Thủy, Đánh giá của du khách về việc khai thác di sản Hán Nôm phục vụ phát triển du lịch ở tỉnh An Giang, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Tập 55, Số 5C (2019).

  2. Nguyễn Thanh Lợi (biên soạn) (2020), Bộ tài liệu về các khu điểm du lịch trọng điểm tỉnh An Giang (lưu hành nội bộ).

  3. Lương Chánh Tòng, Lăng mộ thời Nguyễn ở Nam Bộ: kiến trúc và trang trí, tạp chí khảo cổ học số 5-2015.

  4. Du lịch văn hoá tâm linh, khu du lịch Quốc gia Núi Sam (2022).

Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/

Lăng Thoại Ngọc Hầu (Sơn Lăng – Châu Đốc, An Giang)
Nội dung chính
    Map
    Zalo
    Hotline