Nhà Tùy (589-617) nổi lên trị vì ở Trung hoa sau những trận chiến kinh khủng của thời loạn Thập bát phản Vương, nhưng trị vì không lâu, chỉ 28 năm, đến 617 thì đất nước sang tay nhà Đường.
Trong thời gian ngắn ngủi ấy, năm 602, vua Tùy Văn Đế cũng vẫn đã sai Lưu Phương đem quân 27 doanh sang đánh Giao châu, dụ được Lý Phật Tử ra hàng((Có lẽ không nên vì thấy cái tên có chữ Phật Tử mà vội suy luận rằng ông là một Phật tử thuần thành mộ đạo. Tư cách của ông còn đáng chê nhiều lắm, khi ông dùng danh nghĩa là dòng dõi họ Lý về tranh ngôi với Triệu Việt Vương là người từng vất vả bao nhiêu năm ở Đầm Dạ trạch mới đuổi được quân Tàu, rồi mới lên ngôi, và khi đã được đất cùng cai trị ông lại lừa lúc bất ngờ mà đánh úp người ta đến phải tự sát, để cuối cùng tưởng giữ được nước, thì Lưu Phương qua dụ hàng là ông ra hàng liền ngay.
Có lẽ ông là Tàu, hoặc là người Việt gốc Hoa, nên có cái tên ấy. Chớ thực thì người Việt ở thời này vẫn quen gọi là Bụt (phiên âm trực tiếp từ Ấn ngữ qua ), mà ta có thể biết chắc được qua những tục ngữ, ca dao, như:
Bụt chùa nhà không thiêng.
Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt.
Rỗng như đít bụt.
Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.
Lành như Bụt
Gần chùa gọi Bụt bằng anh, lại thấy Bụt lành cõng Bụt đi chơi.
Bụt ngồi Bụt khóc.
Ông Bụt ốc… Bụt mọc, v.v…
Con chữ Phật là gọi theo sự phiên âm của người Tàu.))
và định đặt trở lại nền đô hộ, mà làm tiêu tan nền tự chủ của ta mới nhem nhúm từ hồi Lý Nam Đế.
Các tài liệu lịch sử không cho ta thấy gì nhiều về chính sách cai trị của nhà Tùy. Chỉ thấy nói việc năm 605, vua Tùy sai Lưu Phương tiến quân vào đánh Lâm ấp đến tận quốc đô, và vua Lâm ấp Phạm Phàn Chi phải bỏ chạy. Ta có thể suy đoán rằng quân đội của Lưu Phương vẫn đóng lại ở Giao châu khi Tùy bắt đầu gặp khó khăn với những người họ Lý sáng lập nhà Đường mới rút quân về và ở đây chỉ còn có văn quan cai trị, để khi mà Đường lên (617) thì các văn quan ấy ngả theo nhà Đường.
NHÀ ĐƯỜNG (617 – 907)
Chính sách cai trị của nhà Đường mới thực ảnh hưởng nhiều đến xã hội ta.
Hồi đầu, từ 617 đến 679 nhà Đường vẫn gọi ta là Giao châu theo các đời trước, coi như một châu quận của họ, đất đai và dân chúng đều phải theo cùng một luật lệ với các châu, quận khác ở chính quốc.
Hồi sau, từ 679 đến 907, nhà Đường mới đổi gọi tên là An nam đô hộ phủ (như các đô hộ phủ khác ở Tây vực, Cao ly), là có ý phân biệt dứt khoát nước của Thiên tử với các vùng thuộc địa xung quanh.
Hồi đầu họ còn có dụng ý đồng hóa dân ta. Nhưng hồi sau, nhân khi các vùng thuộc địa khác nổi dậy thoát ly ảnh hưởng Đường triều((Thổ Phồn nổi lên năm 663 đánh đuổi vua bản xứ bộ hạ của Trung hoa cướp lại các thành đô thuộc Đông Đột quyết như Sơ lặc, Ưu điền, Sa xa, Quy tư.
Người Thổ ở lli cũng liên minh với họ chống lại Đường triều.
Bộ lạc Thổ khác ở Orkhon tại Mông cổ cũng phục hồi lại oai lực cũ mà đe dọa triều đình.
Cho đến Cao ly cũng ngầy ngà yêu sách quyền lợi đối với đất Nam và Bắc cao, khiến triều đình chán ngán phải nhả cả vùng Nam cao cho họ.))
theo quyết định của Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên vợ vua Đường Cao Tông 650-683) thì chính sách được đổi hẳn, chỉ coi đất An nam là vùng đất ngoại quốc, đã bình định được, mà mình bổ người đến cai trị thôi.
Cố nhiên, có nhiều đặc quyền của người dân Trung hoa, mà từ nay dân An nam không được hưởng. Hiện ta thiếu tài liệu để biết thực rõ đó là những đặc quyền gì. Nhưng còn một số tài liệu khác cho ta biết là chính sách cai trị của nhà Đường có cởi mở hơn trước.
A. Có những người dân địa phương được làm quan ở các châu quận bên Tàu như:
– Lê Hồi, người Ái châu làm Lạc dương úy.
– Khương Thần Dực, người Ái châu làm thứ sử Từ châu.
B. Có người làm quan đến chức Tể tướng tại triều đình nữa như:
– Khương Công Phu, người Ái châu giữ chức Giám nghị đại phu Đông trung thư môn hạ bình chương sự, đời vua Đường Đức Tông (780-804).
Hẳn nhiên là không có sự hạn chế trong việc thi cử, đối với người bản xứ.
C. Có những tay thi sĩ cừ khôi người bản xứ như Liễu Tử Hậu đã được danh sĩ nhà Đường là Lưu Hữu Phương ca tụng như một tinh hoa của đất nước((Giao Châu có nhiều vàng, ngọc, châu báu, đồi mồi, tê ngưu và voi, sản vật đều kỳ quái. Cả đến cây cỗ cũng khác lạ. Ta thường lấy làm lạ là làm sao khi chói sáng của mặt trời chỉ phát hiện ở hoa cỏ ngọc ngà mà thôi, ít thấy chung đúc vào người. Nay Liễu sinh có đức tính cương thiện trọng hậu, thảo luận ín nhường, trong thì chất mà ngoài là văn, thơ văn có điệu đại nhã. Như thế thì sinh đã được chung đúc bởi khí thiêng ư ? đời rất hiếm có vậy.
Lê Tắc, trong An nam chí lược.
Bản dịch của Viện Đại học Huế 1961, tr 234.)).
Lại có người xưng là Cử nhân triều Ý Tông, viết bài thơ ghi là vào niên hiệu Hàm Thông (860) còn in trong sách Toàn Đường Thi, để thống trách Trung quốc cùng mỉa mai quan lại và quân đội nhà Đường, đã bại trận vì hèn, để cho dân Giao chỉ phải chết thảm trong những trận Nam chiếu xâm lăng((Nam hoang bất trạch lai
Trí ngã Giao chỉ phúc.
Liên miên tam tứ niên
Trí ngã Giao chỉ nhục
Nhu giả đấu tắc thoái
Vũ giả bính ích độc
Quân dong mãn thiên hạ.
Chiến tướng đa kim ngọc
Loát đắc tế dân sang.
Phân vi mãnh sĩ lộc.
Hùng hùng Hứa xương sư
Trung vũ quan kỳ tộc.
Khứ mã vạn kỵ phong.
Trụ vi nhất xuyên nhục.
Thời hữu tàn tốt hôi
Thiên môn vạn hộ khốc.
Ai thanh động lư lý.
Oán khí thành sơn cốc.
Thúy nàng thích cổ thanh.
Bất nhẫn khán kim thốc
Niệm thử kham lệ lưu
Du du Dĩnh xuyên lục.
Nghĩa là:
Cõi Nam xa xôi bỏ hoang (hay sao mà) không lựa người cai trị (để người ta) cố ý đẩy xứ Giao chỉ chúng tôi nghiêng ngả. Ba bốn năm liền (người ta đã) là xứ Giao chỉ chúng tôi (thật là) nhục nhã.
(người ta đã) tập quen thôi hễ ra trận đánh nhau thì lùi. (Mà lúc đánh nhau thì đồ binh khi (lại) là cái thẻ viết (sớ tàu trình).
Binh lính thì vơ hết mọi người trong thiên hạ.
Chiến tướng (thì lại súng sính) nhiều vàng ngọc quá.
(Đó là những của) bóc lột được bằng cách chích máu dân.
(Rồi) chia chác (với nhau) làm như bọn quan cai ngục chia bổng lộc.
(Người ta) hùng hổ ra quân từ Hứa xương.
Lòng trung can và uy vũ (ngất trời) (cứ nhìn) mũ của dòng thế tộc (mà khiếp vía).
(Nhưng đến lúc) cả vạn ông linh cỡi ngựa chạy như gió bay (thì) trơ ra chỉ còn một con sông đầy thây người chết.
Khi tàn cuộc trở về
Ngàn cửa vạn nhà khóc.
Tiếng than vang động cả làng mạc.
Oán khí chồng chất thành non cao.
Ví như có nghe được tiếng trống.
(Thì) lòng bất nhẫn (như) thấy đầu mũi tên (nhọn đâm vào ruột).
Nghĩ nhớ như thế (mà) cố giữ nước mắt (khỏi) trào ra.
Để sao lục (cầu nguyện (gửi về) đất Dĩnh xuyên rằng rặc ở xa.)).
Thì hẳn nhiên là không có sự hạn chế trong việc học. Và giữa các nho sĩ hai nước vì thiên tài mà đã có sự giao thiệp thân mật để cho thơ chống đối thượng quốc phổ biến và được chép vào Toàn Đường Thi.
D. Không những thế, các quan lại của nhà Đường cử sang cai trị cũng có những tay danh sĩ như:
– Thẩm Thuyên Kỳ, người từng làm thơ ca tụng Vô Ngại Thượng Nhân tu ở chùa Sơn tĩnh (Cửu nhân).
– Vương Phúc Trị, thân phụ của Vương Bột, là một trong bốn tay văn chương lỗi lạc đời Đường((Xem Lã Sĩ Bàng trong bài “Bắc thuộc thời kỳ đích Nam việt”. – Đòng Nam Á chuyên san Hồng kông Đại học 1964.)).
– Triệu Xương sang cai trị năm Hàng Thông thứ 7 rồi mở trường dạy học ở Hải dương đặt tên là Đông giao Hương hiệu((Xem Việt sử tâu biên của Phạm Văn Sơn, 1956 trg 240)).
E. Các quan cai trị này cũng lại có những nhân chính cho dân mến nữa, như:
– Vương Thức trừng trị và lột chức La Hành Cung vì ông này cầm binh quyền làm nhiều điều nhũng lạm.
– Triệu Xương sang lấy lễ nghĩa dụ Phùng An, để Phùng An quy phục.
Đặc biệt là có quan lại như Cao Chính Bình làm dân ta thán để Phùng Hưng nổi lên khởi nghĩa năm 791, thì Cao lo sợ mà chết.
Như vậy, ta có thể kết luận là chính sách cai trị của nhà Đường có cởi mở từ khi họ đổi gọi ta là An nam đô hộ phủ. Và điều có thể chắc được nữa là trong guồng máy hành chánh từ khi họ chia nước ta thành 12 châu, 59 huyện((An nam đô hộ đời Đường gồm có 12 châu và 59 huyện. Mười hai châu ấy là:
– Giao châu gồm Hà nội, Bắc ninh, Nam định tất cả 8 huyện thượng du phía tây sông Hồng đến Vân nam tất cả có 5 huyện.
– Phong châu gồm Sơn tây, Vĩnh yên, cho đến các châu miền thượng du phía tây sông Hồng đến Vân nam tất cả có 5 huyện.
– Trường châu gồm Ninh bình, miền núi giữa Nam định, Thanh hóa, có tất cả 4 huyện.
– Ái châu, nay là Thanh hóa (Cửu nhân, Nhật Nam) tất cả có 4 huyện.
– Hoan châu nay là Hà Tĩnh (việt thường) tất cả có 4 huyện.
– Diễn châu, nay là Nghệ an, tất cả có 7 huyện.
– Phúc lộc châu, phía Đông nam Nghệ an có 3 huyện.
– Lục châu nay là Lạng sơn đến Quảng yên (Ô Diên) tất cả có 3 huyện.
– Thang châu nay là Tuyên quang, có tất cả 3 huyện.
– Chi châu, nay là Hưng hòa, tất cả có 7 huyện.
– Vũ nga châu, nay là Thái nguyên tất cả có 7 huyện.
– Vũ an châu, nay ở trong tỉnh Quảng yên, tất cả có 2 huyện.)) thì người bản xứ có được tham dự vào, nếu không trị nhậm các châu ắt cũng được trị nhậm ở các huyện. Còn tổng và làng vẫn có nếp sống tự trị từ xưa.
NHÀ ĐƯỜNG SÙNG THƯỢNG PHẬT GIÁO:
Vua Thái Tông (627-649) cử nhà sư Huyền Trang sang Tây trúc thỉnh kinh, đi và ở lại tới 17 năm, khi về đem theo về được 657 bộ kinh rồi lại luôn trong 18 năm (615-673) tự tay dịch được 73 bộ, cộng 1330 quyển.
Nhà vua cũng tỏ ra rất trọng vọng các sư ở Giao châu của ta và đã hai lần triệu thỉnh hai vị sang tận cung vua thuyết pháp((Xem trong Việt nam Phật giáo sử lược của Thích Mật Thể.)).
Phần các danh sĩ đời Đường như Trương Tịch cũng có thơ tặng Nhật nam tăng tỏ lòng kính trọng như một vị Phật sống((Xem trong Việt nam Phật giáo sử lược của Thích Mật Thể, thơ của thi sĩ Dương Cự Nguyên tiễn tặng Phụng Đình pháp sư, và của thi sĩ Cổ Đảo tiễn tặng Duy Giám pháp sư.)), mà quan lại sang cai trị như Thẩm Thuyên Ký còn tôn Vô Ngại Thượng Nhân là Y Vương, và xưng mình là đệ tử trong bài thơ sau này:
Đại sĩ sanh Thiên trúc.
Phân thân hóa Nhật nam
Nhân trung xuất phiền não
Sơn hạ tức Già lam
Tiểu giãn hương vi sát
Nguy phong thạch tác am
Hầu thuyền thanh cốc nhũ
Khuy giảng bạch viên tham
Đằng ái vân gián bích
Hoa thê thạch hạ đàm
Tuyên hành u cung hảo
Lâm quải dục y kham
Đệ tử ai vô thức
Y vương tích vị đàm
Siêu nhiên Hồ khê tịch
Chính thụ hạ hư lam.
Nội dung bài thơ coi Vô Ngại Thượng Nhân như một vị Phật sống, một đấng hóa thân của Phật, thoát mình khỏi cảnh phiền não của người và sống hòa mình với thiên nhiên làm một thể.
Bài thơ có nghĩa là:
Đấng Đại sĩ (kiếp trước là Phật) sanh ở Thiên trúc.
(Kiếp này) hóa thân sanh ở Nhật nam.
Và đã thoát vòng phiền não của cõi tục.
(đi xuống) dưới núi (thì thấy) tào Già lam
Cất ở nơi ngọn núi đá cheo leo.
Dưới có một khe nhỏ nước chảy lững lờ.
Chim xanh còn non yếu ngồi chầu hầu (khi Ngài) tham thiền.
Vượn trắng (đã già) thì lắng nghe lời giảng kinh thông
suốt (của Ngài).
Mây quấn quít lấy vách đá dựng (không muốn rời ra)
Hoa (rụng) dưới chân núi (còn) vương vấn trong đầm
(không chịu trôi đi).
Suối chảy từ nguồn xa trong vắt.
(lại sẵn) cây rừng để hong áo giặt (cho hết bụi trần).
Đệ tử lấy làm đáng thương mà không biết.
Và tiếc không được hầu chuyện Y Vương.
(trước) dòng nước phẳng lặng ở khe Hổ khê.
(mà trên là) khí núi bốc lên khoảng hư không (đệ tử chỉ
được đứng như) một thân cây (buồn tủi).
(Bài thơ này viết hết sức súc tích, hai câu kết: Siêu nhiên Hổ khê tịch, Chính thụ hạ hư lam, vẫn được thoát dịch là:
Hổ khê một bữa may sao,
Chiều hôm đổ xuống cây ao một cành.
Người đọc sẽ không sao hiểu nổi được cái gì đổ xuống và sao lại có cây cao một cành ? Vì vậy, chúng tôi thấy phải diễn ra văn xuôi như trên, thì có lẽ mới đúng ý của tác giả muốn nói).
DÂN CHÚNG TRONG VÒNG ĐÔ HỘ
Cụ Trần Trọng Kim viết trong Việt nam sử lược: “Từ khi nước ta thuộc về Tàu, thì có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả. Nhưng sử chép lược quá, thường cách hai ba năm mới chép một việc. Chắc là những nhà làm sử nước ta sau cứ theo sử Tàu mà chép lại cho nên mới sơ lược như vậy”.
Cụ viết như thế không có gì để chứng minh sự nghiệp ấy như thế nào. Lấy con mắt vô tư ra xét việc, căn cứ theo những dữ kiện kể trên, ta thấy các quan lại đô hộ dù muốn lắm cũng không còn ngang nhiên đè nén dân như trước được nữa..
Dân chúng ấy, đại đa số là nông dân, sống ở trong làng theo nếp sống tự trị và tự túc, chỉ có những bổn phận về sưu thuế, tạp dịch, là liên hệ phần nào đến chính sách cai trị của quan lại nhà Đường. Còn phong tục, tập quán, trong đời sống gia đình và xã hội, cũng như tín ngưỡng đạo giáo, dân quê vẫn giữ truyền thống cũ. Văn minh, Trung hoa quả có bị những hàng rào tre ngăn bớt ảnh hưởng vào các làng mạc. Ảnh hưởng ấy thực chỉ mạnh đối với các thương nhân ở các thành thị gần người Tàu mà thôi.
Thêm điều cần ghi nhớ là dân tự trị, tự túc, tự hạn chế những dục vọng vật chất để lấy làm tự mãn trong cuộc sống nghèo mà vui của mình, miễn không bị ngược đãi, thì thời này dân dã sung sướng và dễ thở ra được nhiều lắm, cho nên thời này ngoài việc Phùng Hưng nổi dậy ở phủ Trị đô hộ cho Cao Chính Bình lo sợ mà chết (791) dân quê khắp nơi đã không hề cục cựa tỏ ra sự bất bình gì hết. Mà đến khi Vương Thúc lấy lễ nghĩa chiêu dụ, thì Phùng An hàng ngay, dân quê dường như cũng không biết gì cả.
Tiểu công nghệ gia đình tự túc như thế hẳn là không tiến được bao nhiêu. Mà nền nội thương, buôn thúng bán mẹt, ở các chợ tại thôn quê, cũng không thể nói là có gì đáng kể cả, Chỉ duy sự buôn bán ở các phủ trị và huyện lỵ của các người Tàu, với người Tàu, là có một tầm quan trọng về xuất nhập cảng, mà cố nhiên là số nhập nhiều hơn số xuất, để cái lợi chạy về hết cho Trung hoa.
Nhưng dân chúng chịu đựng sự thiếu thốn đã quen, nên đã tìm ra nguồn an ủi trong tín ngưỡng đạo giáo của mình để ta có thể kể rằng thời này đời sống tôn giáo mới là quan trọng nhất.
Đời sống tôn giáo và đạo đức ấy đã được chính vua và các quan lại nhà Đường cũng tôn trọng như đã kể trên. Sự kiện ấy khiến dân hết dần mặc cảm tự ti đối với người Trung hoa, mặc dầu đời sống vật chất vẫn chênh lệch nhiều giữa hai bên.
Sợ rằng trong đầu của nhân dân ấy cũng không nẩy ra cả cái ước vọng đua đòi theo văn minh Trung hoa nữa, để củng cố những sản phẩm công nghệ, mỹ nghệ như họ, mà người ta có lẽ không biết dùng vào đâu trong cuộc sống ở làng với những nhà lá vách đất, đường xá lầy lội. Thời huy hoàng lộng lẫy nhất của văn minh Trung hoa dưới triều vua Đường Minh Hoàng (713-755) có lẽ dân quê ở An nam đã không biết gì cả. Và sau đó, An Lộc Sơn nổi loạn, vua này chạy về Tứ Xuyên và Dương Quý Phi bị giết, có lẽ dân quê ấy cũng không biết. Họa chăng sau đó nữa (780-804) họ có nghe đồn các danh sĩ trong nước qua làm quan ở bên Tàu, như đã nói trên, nhưng cũng là nghe biết vậy thôi, để thấy dân mình không đến nỗi kém cỏi.
Chỉ đến hồi 846-860 giặc Nam chiến xâm lăng, các quan đô hộ và quân tướng của thiên triều chạy như đàn vịt, để dân bị chết người hại của, thì dân mới bắt đầu oán ghét và coi thường người đô hộ.
Ngay đối với Cao Biền, một danh tướng kiêm danh nho, quảng bác cả thiên văn địa lý, mấy năm sau, đem quân sang đánh dẹp được giặc Nam chiếu, rồi đắp thành Đại la vĩ đại((Thành 4 mặt dài hơn 1982 trượng linh 5 thước (7980 mét) co hai trượng linh 6 thước (10m40) đắp một đường đê bọc ngoài hơn 2125 trượng linh 8m (8530 m 20) cao một trượng rưỡi (6m) đầy 2 trượng (8m) trong thành cho dân sự là làm nhà hơn 40 vạn nóc.)) mà dân chúng vẫn diễu cợt bằng câu tục ngữ “lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” với giai thoại về sự Cao Biền tự chôn mình trong địa huyệt của kiểu đất phượng hoàng ấp noãn, chỉ trăm ngày lại hồi sinh, rồi làm nên sự nghiệp đế vương danh vang bốn bể: Cao Biền nhờ bà già ở gần đấy mỗi ngày đốt giùm cho một nén hương, đủ trăm ngày trăm nén thì gọi dậy, rồi xuống huyệt đạp cho đất lấp lên trên mình. Nhưng vì quên không yểm thần đất nên vị thổ thần hộ huyệt giận mà khiến lũ chuột tới tha trộm của bà lão ba nén hương. Khi đốt 97 nén thấy hết hương, bà lão tưởng đã đủ trăm ngày mới gọi Biền dậy. Cao Biền ngồi dậy thấy mạch đất mới được 97 ngày chưa quán khí, thành ra không làm gì được, người cứ run bắn lên. Biết trời không cho mình Cao Biền thất vọng ra về. Vì vậy mới có câu “lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”.
Tiếng cười của người dân Lạc việt quả đã bắt đầu đáng sợ.
Người ta cười ông tướng võ khí rất nhiều, có cả áo giáp mà lại nhút nhát như con cua, trong câu đối chơi với nhau:
Hai gươm, tám giáo.
Mặc áo da bò,
Thập thò cửa lỗ.
Người ta cười người dân Trung hoa khiêng một con heo, thành ra một quái vật không tên, trong câu đố chơi:
Tam thủ, tam vĩ, lục nhãn, lục nhĩ,
Tứ túc chỉ thiên, tú túc chỉ địa.
Đố là con gì?
Người ta cười cờ với trống trận hùng hổ xông pha ghê gớm lắm, mà chỉ là một con chó trong câu đố khác:
Đầu làng đánh trống
Cuối làng phất cờ
Trống đánh đến đâu
Cờ bay đến đấy.
Người ta cười các quan cai trị chỉ là cái bể thổi lửa, trong câu đố khác nữa:
Ba ông ngồi ghế.
Một ông cậy thế
Một ông cậy thần
Một ông tần ngần
Đốt b… vào bếp
Ấy là những dấu hiệu của sự cựa mình để sắp sửa đứng lên vậy.