Hòa thượng húy Bùi Văn Trung, tự Huyện, pháp danh Thiện Đạo, pháp tự Hồng Trung, pháp hiệu Hoàng Tín. Ngài sanh năm Tân Hợi (1910), tại xã Bình Hòa, quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên. Thân phụ ngài là ông cụ Bùi Kim Thơ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Tạng. Thuở thiếu thời, ngài được song thân cho theo học Nho học với cụ đồ Nguyễn Kim Trân tại xã Bình Yên, quận Thốt Nốt, Long Xuyên.
Hòa thượng pháp húy Như Hương, pháp tự Giải Tâm, pháp hiệu Hòa Phước, thuộc Thiền phái Lâm Tế đời thứ 41, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh ngày 15 tháng 5 năm Giáp Ngọ (1894), tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Hòa thượng húy Lê Thùy, pháp danh Thị Năng, pháp tự Trí Hữu, pháp hiệu Hương Sơn, sinh năm Quý Sửu (1912), tại làng Quá Giáng, huyện Điện Bàn,tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình Nho học và mến Đạo. Thân phụ ngài húy Lê Cát, thân mẫu là Kiều Thị Đính. Gia đình có mười hai người con; ngài là con thứ bảy trong gia đình.
Hòa thượng họ Hồ, húy Thăng, pháp danh Tâm Thanh, hiệu Tịch Tràng. Ngài sanh năm Kỷ Dậu (1909), tại làng Lỗ Giáng, xã Cẩm Lệ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ Hồ Tưởng – thường gọi là cụ Cửu Đẩu – vì cụ có hàm Cửu phẩm Văn giai; thân mẫu là cụ Phạm Thị Liên.
Hòa thượng thế danh là Trần Văn Chín, sinh năm Canh Ngọ (1930) tại làng Ái Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Hoàng, pháp danh Chơn Tấn và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Chung (khi ngài viên tịch thì song thân vẫn còn tại thế).
Thượng tọa thế danh là Phạm Văn Nghi, pháp húy Đồng Viên, pháp tự Thông Lợi, pháp hiệu Viên Đức, nối pháp đời thứ 43 Thiền phái Lâm Tế dòng kệ Chúc Thánh. Thượng tọa sinh năm Nhâm Thân (1932) tại làng Định Trung, xã An Định, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Phạm Giãn, một bậc túc nho, thân mẫu là cụ bà Ung Thị Bình, một Phật tử thuần thành.
Hòa thượng pháp húy Hồng Tường, pháp tự Huệ Hải, pháp hiệu Bổn Thới, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40, là đệ tử của Hòa thượng Như Bổn – Khánh Đức. Ngài họ Nguyễn, sanh vào năm 1910, tại xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Ngài sanh ra trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng thâm tín Phật pháp. Gia đình gồm có hai anh em, ngài là anh trưởng và một em gái.
Hòa thượng Thích Pháp Dõng, thế danh là Trần Quang Lực, ngài còn có tên gọi khác là Trần Quang Phải, sinh ngày 16 tháng 5 năm Ất Mão 1915, tại làng Hanh Phú, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, nay là phường An Phú Đông, quận 12, TP. Hồ Chí Minh. Thân phụ của ngài là cụ ông Trần Quang Tú, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Hài. Ngài là người con thứ 6 trong gia đình có 7 anh, chị em (2 gái 5 trai).
Hòa thượng Thích Thiện Tài, pháp húy Hồng Thanh, pháp tự Ngộ Tài, pháp hiệu Pháp Bửu, thế danh Trần Văn Tài, sinh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Phong Nẫm, quận Cao Lãnh, hạt Sa Đéc. Hòa thượng sinh ra trong một gia đình nho phong, thân phụ là Trần Văn Tần, thân mẫu là Bùi Thị Ơn. Gia đình chỉ có hai chị em, thuở nhỏ ngài thường đau yếu.
Hòa thượng pháp húy Nhựt Cẩm, pháp hiệu Bửu Đồng, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40. Ngài thế danh Ngô Văn Chẩm, sinh năm Quý Sửu (1913), tại làng Mỹ Thạnh, huyện Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên, nay thuộc tỉnh An Giang.
Hòa thượng Thích Bích Nguyên, pháp danh là Chơn Thanh, pháp tự là Chánh Mậu, nối pháp Thiền phái Lâm Tế đời thứ 40. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898, tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thời tráng niên, ngài đi lập nghiệp ở Lào, nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, ngài bèn nuôi chí xuất gia.
Hòa thượng pháp hiệu Quang Lý, pháp tự Đạo Chánh, húy Chơn Khai nối dòng Lâm Tế đời thứ 40, pháp phái Chúc Thánh. Ngài thế danh là Nguyễn Khắc Cát, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Mậu Ngọ (1918) tại làng Hiệp Phổ Bắc, xã Nghĩa Hưng, quận Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, trong một gia đình Thích giáo lưu truyền.