Hòa thượng họ Vũ, pháp huý là Thanh Quát, pháp hiệu là Trung Quán, sinh trưởng trong một gia đình thiện lương làm nông. Cụ ông là Vũ Ðình Duật và cụ bà là Nguyễn Thị Nhiên. Ngài ra đời vào ngày 9 tháng 6 năm Mậu Ngọ 1918 tại làng Hạ Kỳ, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Ðịnh. Gia đình gồm bốn người con, hai trai và hai gái. Ngài là người con trai thứ hai trong gia đình.
Hòa thượng pháp húy Nhựt Thành, pháp hiệu Quảng Đạo, nối pháp đời thứ 41 thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ, thế danh là Đỗ Văn Nữa. Ngài sinh năm 1924 tại xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, là con út trong một gia đình nông dân kính tin Tam bảo và trong dòng họ đã có nhiều người xuất gia.
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, pháp danh Nguyên Công, pháp tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc Thiền phái Lâm Tế đời thứ 44, dòng kệ Liễu Quán, ngài sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận.
Hòa thượng pháp húy Nhựt Long, pháp hiệu Dương Trường, pháp tự Khương Liễu. Ngài thế danh Phạm Văn Phu, thuộc dòng phái Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 42. Ngài sinh năm Mậu Ngọ 1917, trong một gia đình bần nông thuần lương chất phác, thâm tín Phật pháp ở làng Long Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (Tiền Giang).
Hòa thượng Vô Hại, thế danh Nguyễn Văn Thận, sinh ngày 5 tháng 7 năm 1931, tại làng Thanh Lương, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế, thân phụ là cụ Nguyễn Văn Để và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Em. Thân phụ mất sớm, ngài phải bỏ học ở nhà để phụ giúp mẹ chăm sóc em, cháu trong cuộc sống khó khăn gian khổ.
Hòa thượng pháp danh Tâm Thanh, pháp tự Giải Tịnh, pháp hiệu Chơn Nghiêm, thế danh Lê Thanh Hải, sinh năm Tân Mùi (1931), tại xứ Mã Châu, xã Duy An, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ ông Dương Cần, tự Lê Nghiêm, hiệu Viên Minh, pháp danh Thị Tịnh. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Qua.
Hòa thượng Thích Tâm Tịch, pháp hiệu Như Sơn, thế danh là Nguyễn Đình Khuê, sinh ngày 17 tháng 11 năm Ất Mão 1915, tại phố Hội Bình, tỉnh Yên Bái (nay là phường Hồng Hà, TP Yên Bái – tỉnh Yên Bái). Ngài nguyên quán tại làng Đình Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội; sinh trưởng trong một gia đình làm nghề thủ công mỹ nghệ. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Đình Văn; thân mẫu là cụ bà Lê Thị Cúc. Ngài là con út trong gia đình có 6 anh chị em. Năm 4 tuổi thân phụ qua đời và sau đó 10 năm thân mẫu cũng tạ thế.
Hòa thượng Huệ Quang, tên thật là Nguyễn Văn Ân, sinh năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau đó về Trà Vinh theo mẹ. Ngài là một vị cao tăng thạc đức, đã hy sinh cho công cuộc chấn hưng Phật giáo đến phút cuối cùng.
Hòa thượng, thế danh Trần Văn Ứng, pháp danh Thích Mật Ứng, sinh năm 1889 tại xã Vị Xuyên, tổng Đông Mạc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, một địa phương nổi tiếng với nền Nho học, đồng thời là quê gốc của nhiều danh nhân văn chương, trong đó có nhà thơ Tú Xương.
Hòa thượng, thế danh Dương Văn Hiển, pháp danh Thông Hiển, hiệu Doãn Hài, lịch trình đời sinh vào năm Giáp Tuất (1874) tại làng Mai Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Hà, nơi nổi tiếng với nền văn hóa Nho giáo.
Hòa Thượng, hay còn gọi là Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, ra đời vào năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ của Ngài là ông Trần Tín, tự Phúc Châu, và thân mẫu là bà Vũ Thị Tú, hiệu Diệu Hòa.