Cuộc đời và sự nghiệp
Lý Thường Kiệt là một nhân vật lịch sử kiệt xuất của dân tộc Việt Nam hồi thế kỉ XI, ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ và bà Hàn Diệu Chi. Ngô An Ngữ là tướng của Khai Quốc Vương Lý Long Bồ – người con trai thứ hai của Lý Thái Tổ. Ngô An Ngữ (tức Ngô Ích Vệ – con thứ của Ngô Xương Xí – một sứ quân ở Bình Kiều, Thanh Hóa; họ Ngô gốc xứ Thanh thế kỉ X). Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua (1010), Ngô An Ngữ ra làm một quan võ chức nhỏ (Sung bang lang tướng) và đưa gia đình về sống tại phường Thái Hòa (Thăng Long) – làng An Xá, Quảng Đức (nằm phía nam Hồ Tây). Về sau do mở rộng đê Cơ Xá (tức đê sông Hồng), làng An Xá dời đến bãi Cơ Xá. Bãi này sau dân đến lập nghiệp đông, lập một xã mới là xã Phúc Xá. Gia đình của ông Ngô An Ngữ nằm ở thôn Bắc của xã này. Thôn Bắc Biên xưa, nay thuộc xã Ngọc Thụy, Gia Lâm – Hà Nội. Sau này gia đình của Ngô An Ngữ có danh vọng đã chuyển về phường Thái Hòa thuộc nội thành (Hà Nội). Lý Thường Kiệt được sinh hạ tại đây, ông có tên là Ngô Tuấn. Ông sinh năm Kỷ Mùi 1019, tức năm Thuận Thiên thứ 10, đời vua Lý Thái Tổ (1010-1028) và sau đó một người em của Ngô Tuấn là Thường Hiển cũng được ra đời tại đây. Như vậy, ông quê gốc Thanh Hóa nhưng sinh ra ở kinh thành Thăng Long nên ông trở thành con người của kinh thành Thăng Long. Năm 1031 cha mất lúc ông 13 tuổi, năm 1036 mẹ mất lúc ông 18 tuổi. Ông được người chồng của cô là Tạ Đức động viên giúp đỡ nên ham đọc sách. Ông quyết tâm học võ, học chữ để làm rạng danh cho đất nước và gia đình. Ngô Tuấn có vẻ tươi đẹp và được ngợi ca là người thông minh và có nhiều tài nghệ đặc sắc trong lĩnh vực quân sự. Năm 15 tuổi đã ngày tập bắn cung, cưỡi ngựa, lập doanh trại, bày trận địa, đêm học binh pháp của Tôn Tử và Ngô Khởi. Lúc mẹ mất, Ngô Tuấn cùng em trai Thường Hiển lo tang mẹ theo đủ mọi lễ nghi lúc bấy giờ. Sau khi hết tang mẹ, Ngô Tuấn nhận chức Kỵ Mã Hiệu Uy, một chức quan nhỏ trong đội kỵ binh. Lúc 22 tuổi (1041), dưới thời vua Lý Thái Tông, Ngô Tuấn được nhận chức Hoàng Môn Chi hậu – ngạch thị vệ hầu vua (một chức hoạn quan nhỏ trong triều). Nhưng theo bia chùa Linh Xứng và bia Ngọ Xá (Hà Ngọc, Hà Trung, Thanh Hóa) dựng năm 1126 đã nói rằng: “Lúc quan Thái Úy – tức Lý Thường Kiệt – Ngô Tuấn – còn trẻ được chọn vào cấm đình, hầu vua Thái Tông, chưa đầy một kỷ, tiếng khen đã nức ở nội đình). Đến khi vua Thánh Tông nối ngôi trị nước, Thái Úy hết lòng mình giúp đỡ, ra sức siêng năng nổi bật trong hàng tả hữu, được thăng chức Kiểm Hiệu Thái Bảo.
Bắt đầu từ khi làm trong triều, Lý Thường Kiệt đã tỏ rõ năng lực phi thường của mình. Ông đã làm quan trải qua 3 đời vua Lý là Lý Thái Tông (1028-1054), Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1077). Lúc còn trẻ ông rất khôi ngô tuấn tú được phong “Đệ nhất mỹ nam tử”. Từ khi làm việc trong cung, với tài năng đó của ông, vua đổi họ cho ông sang cho họ Lý – Lý Thường Kiệt. Ông giữ chức Thái tử mật thư tỉnh sự, giúp Thái tử Lý Nhật Tôn ở Đông Cung tức vua Lý Thái Tông – Sau khi giữ chức Hoàng Môn Chi hậu, được một thời gian ông giữ chức Nội Thị Sảnh Đô tri. Sau đó giữ chức Đình Úy Sử trông coi việc hình án trong triều. Năm 1042, vua Lý Thái Tông giao cho ông cùng một số đại thần soạn thảo bộ Luật Hình thư, bộ luật này được xem là bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta. Từ một chức quan nhỏ, ông được thăng đến chức Phụ Quốc Thái Phó, Dao Thụ Chư Trấn Tiết Độ, Đồng Trung Thư Môn Hạ, Thượng Trụ Quốc, Hà Thái Úy – Tước Khai Quốc Công và được nhận Thiên Tử Nghĩa Đệ (em kết nghĩa của Thiên tử). Lý Thường Kiệt có 3 cống hiến lớn: Không ngừng nêu cao tấm gương trung kiên ái quốc tốt đẹp của một bậc đại thần khi vận nước lâm nguy cũng như khi non sông thái bình. Hai là ông đã cùng với vua và triều đình trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt là góp phần củng cố sức mạnh của bộ máy Nhà nước đương thời. Ba là Lý Thường Kiệt là người vạch và trực tiếp kế hoạch chiến lược, trực tiếp chỉ huy những trận đánh lừng danh nhất ở thế kỉ XI, đập tan hoàn toàn mưu đồ xâm lăng nguy hiểm và xảo quyệt của quân Tống, bảo vệ vững chắc nền độc lập của nước nhà. Trong khoảng thời gian 10 năm, sau khi Lý Thánh Tông qua đời (1069), Lý Thường Kiệt thực sự là linh hồn của đất nước, là người chịu trách nhiệm lớn nhất trong sự nghiệp điều khiển vận mệnh quốc gia.
Đóng góp của Lý Thường Kiệt sáp nhập Quảng Bình vào quốc gia Đại Việt
Giữa thế kỉ XI, nhà Tống chủ trương huy động một lực lượng mạnh hòng xâm lược Đại Việt. Nhà Tống cho lập 3 căn cứ quân sự lớn: Ung Châu, Châu Khâm, Châu Liêm sát biên giới phía Bắc của Đại Việt. Tình hình biên giới rất căng thẳng. Trong lúc đó, nhà Tống cũng tìm mọi cách để bao vây và cô lập nước ta, ngày đêm tính kế chia rẻ, xúi giục những kẻ chống đối với chính quyền, những tướng lĩnh cao cấp trong triều Lý giữa phe Thái hậu Thượng Dương và phe Thái phi Ỷ Lan. Ở phía Nam, sau một thời gian phục hồi, vua Chiêm Thành là Chế Cũ lại bắt đầu gây rối ở biên cương phía Nam. Năm 1068, vua Chiêm một mặt nộp cống phẩm, mặt khác lại quấy nhiễu biên giới. Như vậy, cả biên giới phía Bắc và phía Nam của Đại Việt bị dồn ép bởi 2 gọng kìm quân sự. Vua tôi nhà Lý sớm nhận ra cuồng vọng của kẻ thù, vua Lý Thánh Tông quyết định đánh Chiêm. Tháng 2 năm Thiên Huống Bảo Tượng thứ hai Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông thân chinh cầm quân cùng với tướng quân Lý Thường Kiệt dẫn 50 nghìn quân đánh vào kinh thành Phật Thệ (tức Vi JaYa – Bình Định) của Chiêm Thành. Công việc triều chính của nhà Lý được giao cho Nguyên phi Ỷ Lan trông coi. Đại Việt sử ký toàn thư: “Vua đánh Chiêm Thành mãi không được, đem quân về đến châu Liên Cư, nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hóa hòa hợp, trong cõi vững vàng, tôn sùng phật giáo, dân gọi bà là quan âm, vua nói “Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng làm được việc gì hay sao! bèn quay lại đánh nữa, thắng được”. Vua Lý Thánh Tông cùng với tướng quân Lý Thường Kiệt dẫn quân tiến bằng đường biển vào đến của Nhật Lệ. Thủy quân Chiêm chặn đánh dữ dội. Vua sai tướng Hoàng Kiện đốc thúc quân sỹ đánh trực diện. Quân Chiêm không đánh nổi phải bỏ chạy vào phía trong. Khi đến kinh đô Phật Thệ, quân lính đổ bộ tiến đánh quân Chiêm hai bờ sông Tu Mao. Trong trận này hai anh em Lý Thường Kiệt và Thường Hiển lập công xuất sắc. Vua Chiêm là Chế Cũ (Rudereverna III) đưa vợ con bỏ thành chạy vào phía Nam. Quân Lý Thường Kiệt vào thành đuổi bắt được Chế Cũ đưa về Thăng Long. Để chuộc mạng, Chế Cũ xin dâng ba châu: Bố Chinh, Địa Lý, Ma Linh (tức vùng đất của Quảng Bình và Bắc Quảng Trị ngày nay) cho Đại Việt. Vua Lý Thánh Tông chấp nhận tha cho Chế Cũ về nước. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Bố Chinh, Địa Lý, Ma Linh đổi thành Bố Chính, Lâm Bình và Minh Linh.
Chiến thắng của quân dân Đại Việt có ý nghĩa quan trọng đối với vùng đất Quảng Bình. Năm 1069, địa bàn Quảng Bình và một phần lãnh thổ phía Bắc Quảng Trị đã được sáp nhập vào quốc gia Đại Việt. Biên giới Đại Việt đã vượt qua khỏi Hoành Sơn Quan (Đèo Ngang) tiến về phía Nam, mở đầu cho công cuộc mở cõi về phương Nam. Trong cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, Đại Việt không có chủ trương chiếm đất, giành dân, thiết lập bộ máy chính trị mà xuất phát từ mục đích bảo vệ biên cương phía Nam, để tập trung đối phó với kẻ thù phía Bắc. Trong khi đó người Chiêm đã nhiều lần mở rộng lãnh thổ về phía Bắc, liên tiếp tổ chức chiến tranh và liên tiếp gặp thất bại.
Năm 1072, vua Lý Thánh Tông qua đời khi công cuộc chuẩn bị đối phó với quân Tống phía Bắc đang dang dở. Vua nối nghiệp là Lý Nhân Tông (1072-1127) tuổi đang nhỏ cho nên mọi trọng trách lớn đều do Lý Thường Kiệt đảm nhiệm. Lúc này Lý Thường Kiệt giữ chức Phụ Quốc Thái Úy, cương vị như vị tể tướng. Ở một chừng mực nhất định thì Lý Thường Kiệt là linh hồn của sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc trong giai đoạn lịch sử cụ thể này. Lý Thường Kiệt đã để lại cho lịch sử một trong điển hình vô giá về kinh nghiệm chuẩn bị ứng phó. Về chính trị, ông chủ động cho khôi phục và củng cố khối đại đoàn kết. Ông nêu tấm gương cảm động về hàn gắn vết rạn nứt trong nội bộ quý tộc và tướng lĩnh. Ông đã mời Lý Đạo Thành về kinh đô giữ chức vụ cũ, còn ông chỉ trông coi việc chỉ huy quân đội. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, ông dùng nhiều biện pháp lôi kéo cho phép đồng bào được xét xử tội nhân theo phong tục tập quán riêng của họ chứ không nhất thiết phải theo bộ luật của triều đình (Luật Hình thư 1042). Đối với các vị tù trưởng được triều đình ban cho nhiều đặc quyền đặc lợi, phong hàm tước cao. Triều đình gả công chúa cho các tù trưởng. Vì thế mối liên hệ giữa cộng đồng với quốc gia nhanh chóng được tăng cường và củng cố. Về quân sự, Lý Thường Kiệt chủ trương tích cực và táo bạo như chủ động tấn công thành Ung Châu, Châu Khâm, Châu Liêm của nhà Tống với tư tưởng tấn công để tự vệ từ hai phía.
Tháng 8 năm Ất Mão (1075), Lý Thường Kiệt chỉ huy quân đánh Chiêm Thành. Ông vâng mệnh triều đình vẽ bản đồ ba châu: Bố Chinh, Địa Lý, Ma Linh. Lý Thường Kiệt vâng mệnh vua Lý Thánh Tông, quyết định đổi tên châu Bố Chinh thành Bố Chính, Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh; chiêu mộ cư dân Đại Việt đến khai phá vùng đất mới này nhằm tạo ra một lực lượng bảo vệ vùng biên cương phía Nam của Đại Việt, ban hành một nền hành chính, ổn định cuộc sống nơi phên dậu xa xôi của Tổ quốc, thể hiện sự chuyển biến từ chiến tranh qua hòa bình ở vùng đất mới bình định. Các triều đại kế tiếp của Chiêm Thành vẫn còn âm mưu và chờ thời cơ sẽ chiếm lại vùng đất bị mất. Lý Thường Kiệt lại một lần nữa thân chinh cầm quân dẹp loạn (Quý Mùi 1103). Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Quý Mùi (1103) mùa đông tháng 10, người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản… việc tâu lên, vua sai Lý Thường Kiệt đi đánh, Giác thua, trốn sang Chiêm Thành, dư đảng đều bị dẹp yên” (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, trang 284, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998). Vua Chiêm là Chế Ma Na lại cho quân đánh chiếm lấy lại ba châu do Chế Củ dâng. Lý Thường Kiệt lại đưa quân đi đánh. Với tài thao lược và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân ba châu, Lý Thường kiệt đã đánh tan quân Chiêm lấy lại vùng biên cương phía Nam, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt vào năm 1104. Biên cương phía Nam được giữ vững, triều đại Chiêm phải thuần phục.
Với vùng đất Quảng Bình, Lý Thường Kiệt là người lĩnh ấn tiên phong đưa vùng đất Bố Chính, Lâm Bình sáp nhập về với quốc gia Đại Việt. Ông là vị thành hoàng thủy tổ khai canh, mộ dân lập ấp vùng biên cương phía Nam của Tổ quốc ở thế kỉ XI – Vùng đất này trở thành phên dậu phía Nam của nhà Lý.
Với chính sách của nhà Lý coi trọng phát triển nông nghiệp, công cuộc khẩn hoang được tiến hành trên quy mô lớn. Người dân được nhận ruộng đất cày cấy. Triều đình giảm tô miễn thuế cho dân khi bị mất mùa, ra lệnh cấm giết mổ trâu bò để bảo vệ sức kéo. Hệ thống đê điều được củng cố, người dân di cư bằng đường bộ và đường thủy đến khai phá vùng đất Lâm Bình (Quảng Ninh – Lệ Thủy ngày nay) là vùng đất đai màu mỡ phì nhiêu, điều kiện địa lý thuận lợi. Đây là vùng đất có ý nghĩa quan trọng cả về mặt quân sự và là vùng biên ải phía Nam của đất nước lúc bấy giờ. Triều đình với chính sách “ngụ binh ư nông” – lúc thời bình làm người dân nhưng lúc thời chiến là người lính đã động viên được nông dân trong sản xuất và trong chiến đấu. Họ tập trung thành từng làng xã. Sự cố kết cộng đồng trong họ tộc tạo nên sức mạnh cho họ trong khai sơn phá thạch. Những phong tục truyền thống đã được phát huy, họ đoàn kết đấu tranh trấn giữ biên cương phía Nam chống lại sự xâm lấn của Chiêm Thành. Về phía Nhà nước đã chịu trách nhiệm tổ chức quản lý xã hội và gìn giữ độc lập tự chủ cho dân tộc. Việc bảo vệ, mở mang lãnh thổ quốc gia làm cho nước giàu, dân mạnh đã trở thành ý thức thường trực trước hết là vì sự tồn tại của chính nó. Về phía nhân dân thì đã xây dựng được một cuộc sống phồn vinh trong cảnh tượng thanh bình của quốc gia độc lập tự chủ và đó không chỉ là nguyện vọng mà là yêu cầu sống còn mang tính truyền thống đã từng thử thách tôi luyện qua hàng ngàn năm trước.
Sau khi bình Chiêm, được dâng ba châu Địa Lý – Ma Linh – Bố Chính, nhà nước phong kiến đã có chủ ý đưa dân vào khai khẩn vùng đất biên giới phía Nam (Quảng Bình) cũng là vì mục tiêu chính trị – quân sự và có định hướng. Người Việt do nhà nước chiêu mộ đã di cư về phía Nam. Cư dân bản địa một phần của bộ lạc Cau Dừa (Chămpa) đã rút về phía Nam, một số dân bản địa sống trong các làng bản dân tộc còn lại rất thưa thớt. Bởi vậy, triều đình nhà Lý mà lúc đó danh tướng Lý Thường Kiệt đã đứng ra chiêu tập dân di cư vào khai canh mở cõi vùng đất phên dậu phía Nam của Đại Việt. Với vai trò to lớn của một người cầm quân, Lý Thường Kiệt là người khai canh mở cõi, mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Vùng đất này đã phát triển về dân số, về diện tích canh tác,… tạo một bước phát triển mạnh mẽ toàn diện trong xã hội. Khôi phục và xác lập cho đất nước một tư thế vững chắc, giữ một vị trí và vai trò đáng kể trong sự tồn tại và phát triển chung của khu vực. Và cuối cùng là làm rõ thêm sức sống mãnh liệt, bản lĩnh vững vàng của cộng đồng dân tộc Việt trên địa bàn gốc của mình, người Việt đã có ý thức và chủ động sẵn sàng đón nhận ảnh hưởng văn hóa, văn minh từ những nơi khác, làm phong phú kho tàng văn hóa của dân tộc góp phần đưa đất nước vào kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên Đại Việt với nền văn hóa Thăng Long rực rỡ.
Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/