Giới thiệu
Thiền sư Liễu Quán (1668 – 1743) là một cao tăng Việt Nam, thuộc thứ 35 trong dòng phái tông Lâm Tế. Ông là người sáng lập Thiền phái mang tên mình, một nhánh Thiền với phong cách đặc trưng của Văn hóa Phật giáo Việt Nam, còn truyền lại cho đến ngày nay.
Thân thế
Thiền sư Liễu Quán, tên họ Lê, tên húy Thiệt Diệu, tự Liễu Quán, sinh vào giờ Thìn ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi, tương đương ngày 01 tháng 01 năm 1668, tại làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
Mất mẹ khi mới sáu tuổi, Thiền sư mong muốn xuất gia. Cha đã đưa ông đến chùa Hội Tôn ở Phú Yên để cầu nguyện và đảnh lễ trước Hòa Thượng Tế Viên, mong được nhận lời.
Sau khi Hòa Thượng Tế Viên qua đời bảy năm, Thiền sư đã vượt qua dãy núi từ Phú Yên đến Thuận Hóa, đến núi Hàm Long, nơi chùa Báo Quốc nay đã đảnh lễ trước Giác Phong Lão Tổ, mong nhận được sự hướng dẫn trong tu hành.
Vào năm Tân Mùi, năm 1691, sau khi tròn một năm xuất gia, Thiền sư trở về quê nhà, làm công việc hái củi và nấu cháo, chăm sóc cha mẹ. Trải qua bốn năm, cha của ông đã qua đời.
Cơ duyên tu tập
Qua bốn năm thân phụ mất, nhằm năm Ất Hợi (1695), Sư lại trở ra Thuận Hóa thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thạch Liêm. Năm Đinh Sửu (1697), Sư lại thọ giới Cụ túc với Lão hòa thượng Từ Lâm (người Trung Hoa) ở chùa Từ Lâm.
Năm Kỷ Mão (1699), Sư đi tham lễ khắp Thiền lâm trải qua biết bao sự khó khăn khổ nhọc. Đến năm Nhâm Ngọ (1702), Sư lại Long Sơn tham yết Hòa thượng Tử Dung cầu dạy pháp tham thiền. Hòa thượng dạy Sư tham câu:
Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ?
(Muôn pháp về một, một về chỗ nào?)
Sư ngày đêm tham cứu đến bảy, tám năm mà chưa lãnh hội, trong lòng tự lấy làm hổ thẹn.
Một hôm, nhân đọc Truyền Đăng Lục đến câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, thoạt nhiên Sư được tỏ ngộ. Nhưng vì núi sông cách trở, Sư không thể đến ngài Tử Dung để trình sở ngộ được.
Đến mùa xuân năm Mậu Tý (1708), Sư trở ra Long Sơn cầu Hòa thượng ấn chứng. Sư đem chỗ công phu của mình mỗi mỗi trình bày, đoạn nói đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”, Hòa thượng liền bảo:
Bờ thẳm buông tay,
Tự nhận đảm đang,
Chết rồi sống lại,
Dối người chẳng được.(Huyền nhai tán thủ,
Tự khẳng thừa đương,
Tuyệt hậu tái tô,
Khi quân bất đắc.)
Sư liền vỗ tay cười ha hả! Hòa thượng bảo: Chưa nhằm.
Sư nói: Trái cân vốn là sắt (bình thùy nguyên thị thiết).
Hòa thượng bảo: Chưa nhằm.
Hôm sau Hòa thượng gọi Sư đến bảo: Chuyện hôm qua chưa xong, nói lại xem!
Sư thưa:
Sớm biết đèn là lửa,
Cơm chín đã lâu rồi.(Tảo tri đăng thị hỏa,
Thực thục dĩ đa thì.)
Bấy giờ, Hòa thượng mới chấp nhận và khen ngợi.
Mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712), Hòa thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện (?), Sư đem trình bài kệ Dục Phật (tắm Phật).
Hòa thượng hỏi: Tổ Tổ truyền nhau, Phật Phật trao nhau, chẳng biết truyền trao cái gì?
Sư thưa:
Búp măng trên đá dài một trượng,
Phất tử lông rùa nặng ba cân.(Thạch duẩn trừu điều trường nhất trượng,
Quy mao phủ phất trọng tam cân.)
Hòa thượng nói:
Thuyền chèo trên núi cao,
Ngựa đua dưới đáy bể.(Cao cao sơn thượng hành thuyền
Thâm thâm hải để tẩu mã.)
Sư đáp:
Cây đàn không dây trọn ngày gẩy
Trâu đất gẫy sừng rống suốt đêm.(Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống
Một huyền cầm tử tận nhật đàn.)
Sư biện tài lanh lẹ, lâm cơ ứng biến, như nước với sữa rất phù hợp. Hòa thượng rất vui mừng ấn khả.
Chỗ hóa duyên của Sư rất rộng, thường ra vào Huế, Phú Yên để giáo hóa luôn, không nề khó nhọc.
Năm Quý Sửu (1733), Giáp Dần (1734) và Ất Mão (1735), Sư nhận lời thỉnh của chư Tăng trong Tông môn, cùng các Tể quan, cư sĩ ở Huế, dự bốn lễ đại giới đàn. Qua năm Canh Thân (1740), Sư tấn đàn Long Hoa phóng giới, rồi trở về chùa Thiền Tông.
Thời ấy, chúa Nguyễn Ninh Vương rất quí mến đạo đức của Sư, thường mời vào cung đàm đạo, nhưng Sư vẫn từ chối không vào.
Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742), Sư lại dự lễ giới đàn ở chùa Viên Thông.
Thời viên tịch
Cuối mùa Thu năm Nhâm Tuất (1742), Tổ chỉ bệnh nhẹ. Vào giữa tháng mười, Thiền sư gọi đồ chúng mà bảo:
“Ngô tương quy hĩ, thế duyên dĩ tận
(Duyên đối với thế gian đã hết, Tôi sắp về vậy!)”.
Mọi người đứng bên đều khóc. Tổ dạy:
“Quý vị tại sao lại buồn khóc? Chư Phật xuất thế còn thị hiện Niết bàn. Tôi nay đến đi rõ ràng, về ắt có chỗ. Quý vị hãy vâng hành đừng có buồn khóc!”.
Vào tháng 11 năm Nhâm Tuất, trước khi mất vài ngày, Thiền sư ngồi ngay thẳng viết thi kệ thị tịch như sau:
“Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn mang vấn Tổ tông”.
Nghĩa là:
Hơn bảy mươi năm giữa cõi đời
Không không sắc sắc thảy dung thông
Sáng nay nguyện mãn về quê cũ
Nào phải bôn ba hỏi Tổ Tông.
Sau khi viết xong thi kệ thị tịch, Thiền sư dạy môn đồ rằng:
“Câu nói sau cùng của Lão Tăng sống đạo là gì? Lồng lộng nguy nga, huy hoàng rực rỡ. Xưa đến, nay đi. Muốn hỏi chỗ trọng yếu đến đi thế nào? Kìa trời biếc lắng trong, trăng thu vằng vặc, toàn thân hiển lộ nơi sa giới đại thiên. Lời pháp sau cùng của ta, quý vị hãy nghĩ suy, vô thường nhanh chóng, Bát nhã phải tinh cần học tập. Đừng vội quên lời ta, mỗi vị hãy tự mình tinh tấn lên!”.
Ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất, tức ngày 18 tháng 12 năm 1743, sau khi uống trà, pháp thoại và hành lễ buổi sáng xong, Thiền sư hỏi mấy giờ? Môn đồ đáp là giờ Mùi, Thiền sư Liễu Quán liền an nhiên thị tịch.
Thiền sư hưởng thọ 76 tuổi, tính theo niên đại sinh và tịch, 43 năm được truyền y bát, 34 năm thuyết pháp độ sanh, đệ tử xuất gia kế thừa pháp có 49 vị, đệ tử tại gia có đến ngàn, vạn người.
Chúa Võ Vương – Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) quý trọng đạo hạnh của Thiền sư, cung kính dâng lên Thiền sư thụy hiệu: “Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng” để khắc vào bia.
Sau khi Thiền sư viên tịch nhục thân của Ngài đã được môn đồ cung tiễn đến nhập bảo tháp.
Thiền sư Thiệt Diệu – Liễu Quán truyền thừa Chánh Pháp Nhãn Tạng đời 72 từ Tổ Ca Diếp Ấn Độ; đời thứ 35 từ phái thiền Lâm Tế – Nghĩa Huyền ở Trung Hoa và là vị Sơ Tổ của phái thiền Liễu Quán ở Việt Nam.
Kệ truyền pháp
Tổ sư Liễu Quán để lại bài kệ truyền pháp sau đây:
Thiệt Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận,
Đức Bổn Từ Phong
Giới Định Phước Tuệ
Thể Dụng Viên Thông
Vĩnh Siêu Trí Quả
Mật Khế Thành Công
Truyền Trì Diệu Lý
Diễn Xướng Chánh Tông
Hạnh Giải Tương Ưng
Đạt Ngộ Chơn Không.
Dịch:
Đường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng
Giới định cùng tuệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công
Thuyền giữ lý mầu
Tuyên dương chính tông
Hành giải song song
Đạt ngộ chân không.
Tổ Liễu Quán được biết đến với 49 đệ tử xuất gia danh tiếng, cùng với nhiều đệ tử khác tại gia. Trong số ấy, tại Huế có 9 vị:
-
Tế Hiệp: Đã đắc pháp trực tiếp tại chùa Thuyền Tôn, ngôi Tổ đình lớn nhất ở Thuận Hóa. Ngài húy Hải Điện thụy Viên Minh Hòa thượng, trụ trì 33 năm và viên tịch năm 1775 tại Tổ đình.
-
Tế Mẫn Tổ Huấn: Kế thế Tổ Tế Hiệp và trụ trì Tổ đình từ 1775 – 1777, với Ngài Tế Hiển Trạm Quang là pháp lữ của hai Tổ trên.
-
Tế Nhơn Hữu Bùi: Được biết đến từ chùa Báo Quốc, húy Viên Giác thụy Giác Viên Hòa thượng (-1753), sau đó truyền pháp vào Phú Yên. Ngài Tánh Thông Giác Ngộ Hòa thượng, tu luyện trong núi suốt 41 năm, được tôn phong là “Sơn nhân tăng”, có phép thần và đã chữa được bệnh mù cho mẹ vua Minh Mạng. Ông là Tổ khai sơn chùa Bát Nhã tại Mỹ Phú, xã An Hiệp huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, thuộc pháp phái của Tổ Tế Nhơn.
-
Tế Ân Lưu Quang: Được biết đến từ chùa Báo Quốc, húy Viên Giác, là người đã phát triển rộng khắp Thiền phái Tử Dung – Liễu Quán ở Thuận Hóa, Huế và nhiều tỉnh miền Trung.
-
Tế Vĩ Trường Chiếu: Tổ khai sơn chùa Đông Thuyền, ở Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, được biết đến là Viên Hiệu Hòa thượng.
-
Tế Phổ Viên Trì: Kế thừa Tổ Liễu Quán và trụ trì chùa Viên Thông. Tổ kế thừa húy Đại Nguyện, là Viên Đoan Hòa thượng, phái Lâm Tế đời 37. Đời thứ 38, là Ngài Đạo Thiện, húy là Viên Trừng Hòa thượng. Đời thứ 39 có Ngài Tánh Trạm, húy là Quảng Phong, trụ trì nhưng chùa suy giảm. Năm Thành Thái nguyên niên (1889), Hòa thượng Pháp Lâm kế thừa thứ 5 chùa Châu Lâm ở Phú Yên, thuộc dòng kệ của Thiền sư Minh Hải chùa Chúc Thánh, Quảng Nam, ngang hàng với thế hệ 40 phái Lâm Tế. Sau đó, Ngài viên tịch, và đệ tử Như Thừa Hoằng Nguyện đời thứ 41 tiếp tục công việc khai triển đất đai với tinh thần “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”.
-
Tế Ngữ Chánh Dũng: Tổ khai sơn chùa Từ Lâm.
-
Tế Huy Quảng Tánh: Trụ trì chùa Khánh Vân, được biết đến từ chùa do Ngài Giác Thù (1664 -1754), phái Tào Động, khai sơn.
Tỉnh Phú Yên có khoảng 10 đệ tử kế thừa Tổ Liễu Quán, một số trong số họ đã khai sơn các chùa sau:
-
Tế Hẩu: Hiệu Khánh Liên, Đại lão Hòa thượng, kế thừa Tổ khai sơn chùa Bảo Tịnh, húy là Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng.
-
Tế Duyên: Chùa Kim Cang, hiệu Quảng Giác Hòa thượng. Được sáng lập từ thời Lê trung hưng và nhận sắc tứ vào năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh Hựu (1739). Chùa còn giữ được độ điệp của vua Minh Mạng vào năm 1830.
-
Tế Dũng: Tổ khai sơn chùa Bình Quang, phường 4 thành phố Tuy hòa, tỉnh Phú Yên.
-
Tế Căn: Tổ khai sơn chùa Hồ Sơn, hiệu Từ Chiếu Lão Tổ Hòa thượng. Chùa nằm trên ngọn đồi bao quanh là ruộng đồng thuộc phường 9, thành phố Tuy Hòa.
-
Tế Khoán: Hiệu Trừng Hưng Hoà thượng, khai sơn chùa Dương Long thôn Phú Aân, xã Hòa An huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên.
-
Tế Ngạn: Tổ khai sơn chùa Long Sơn (chùa Bầu Đục) thôn An Nghiệp xã Hòa Định, nay là huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên, hiệu Thanh Tùng Hòa thượng.
-
Tế Thường: Hiệu An Dưỡng Hòa thượng, Tổ khai sơn chùa Vĩnh Xương thôn Phú Lương, xã An Phú huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
-
Tế Đài: Hiệu Khánh Thụy Hòa thượng, Tổ khai sơn chùa Kim Long phía Đông núi Nhạn, phường I thành phố Tuy Hòa.
-
Tế Ý: Hiệu Hoằng Câu Hòa thượng, Tổ khai sơn chùa Long Sơn, thôn Phú Hòa xã An Mỹ huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Tế Tín: Hiệu Pháp Vị Hòa thượng, có long vị thờ tại chùa này.
Cùng thời với Tổ Liễu Quán, chùa Bảo Tịnh ở Phú Yên còn có các thiền sư thuộc phái Lâm Tế đời thứ 35, như Thiệt Lãm, hiệu Chí Kiên Hòa thượng, đã khai sáng chùa Bảo Sơn Thiên Hải ở Phú Ốc và chùa Thiên Hưng ở Hội Phú xã An Ninh Đông huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Chùa Viên Quang ở An Nghiệp huyện Tuy An, Tổ khai sơn húy Phật Đạt hiệu Mặc Tùy và chùa Châu Lâm nguyên thủy là chùa Long Thủy ở làng Bạc Mã tổng An Hải, nay là thôn Quảng Đức xã An Thạch huyện Tuy An do Tổ kế thừa húy Phật Đoan (theo dòng kệ Đạo Mân) phái Lâm Tế đời thứ 35.
-
Tán thán công hạnh
Tổ sư Liễu Quán thuyết pháp độ sinh 34 năm (1708-1742), độ xuất gia và tại gia kể đến hàng ngàn. Ghi nhận đóng góp của Sư cho Phật giáo Việt Nam, Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết: Nếu ở Đàng Ngoài, Thiền sư Chân Nguyên được xem là nhân vật then chốt để phục hưng Phật giáo Đàng Ngoài, thì ở Đàng Trong Thiền sư Liễu Quán cũng được xem là vị thiền sư lãnh đạo công cuộc phục hưng Phật giáo Đàng Trong……Thiền sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một thiền phái linh động, có gốc rễ ở Đàng Trong. Trước ông, Phật giáo ở Đàng Trong mang nặng màu sắc Quảng Đông. Ông đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế, và làm cho thiền phái này trở thành thiền phái của đa số Phật tử Đàng Trong. Kiến trúc lễ nhạc bắt đầu trút bỏ màu sắc Trung Quốc và từ từ mang lấy màu sắc dân tộc. Những bài tán lễ như “Cực lạc Từ Hàng” chẳng hạn, đã hoàn toàn mang màu sắc Việt. Bốn vị đệ tử lớn của ông là Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu dã tạo lập bốn trung tâm hoằng đạo lớn, và hàng chục tổ đình được tạo dựng khắp Đàng Trong trong thế kỷ 18 đã thuộc về môn phái Liễu Quán. Phong trào Phật giáo phục hưng ở thế kỷ 20 đã dựa trên cơ sở của môn phái mang tên ông….
Ở thành phố Huế, hiện có con đường mang tên Sư Liễu Quán.
Bảo tháp
Sau khi viên tịch, di cốt của thiền sư được nhập vào bảo tháp thuộc vùng rừng thông của làng An Cựu xưa (Thừa Thiên Huế). Đây là một ngôi tháp đẹp, cổ kính và uy nghiêm.
Ngôi tháp cổ tựa lưng vào núi Thiên Thai, xung quanh được bao bọc bởi những cây cổ thụ lớn.
Tháp có hai lớp tường thành bằng đá bao quanh. Lớp trong hình bát giác, lớp ngoài hình tứ giác. Ở ngoài nhìn trên cổng tường vào tháp có biển đề chữ: “Ðàm hoa lạc khứ hữu du hương” (hoa đàm rụng hương thơm vẫn còn).
Hai bên có hai câu đối: “Bửu đạt trường minh bất đoạn môn tiền lưu lục thủy; Pháp thân độc lộ y nhiên tạo lý khán thanh sơn” (Tiếng linh báu ngân dài cùng dòng nước lục trước cửa chảy hoài không dứt; Pháp thân lộng y nhiên bất động ngắm núi xanh).
Phía trước tháp cũng có một hồ bán nguyệt trồng hoa sen, hoa súng, tiếp đó là hương án được làm bằng đá chạm trổ hình tượng hai con rồng rất tinh tế.
Ngay chân tháp cổ là tấm bia đá, được gắn sâu vào mặt trước của chân tháp, dòng lạc khoản ghi “Sắc tứ Chánh Giác Viên Ngộ Liễu công Lão Hòa thượng chi tháp” (Tháp của Lão Hòa thượng Liễu công, thụy hiệu là Chánh Giác Viên Ngộ).
Ở vị trí trung tâm của tháp có nhà bia lớn, văn bia gồm gần 1.500 chữ Hán được soạn và dựng 6 năm sau ngày Tổ Liễu Quán viên tịch.
Chính nội dung tấm bia này là một tài liệu đầy đủ nhất còn lại cho người đời sau biết rõ công hạnh tu chứng và hóa đạo của Tổ Liễu Quán.
Đặc biệt, bài minh trên bia do hòa thượng Thiện Kế biên soạn, nhưng lại có dấu triện vuông ghi là “Quốc chủ ngự bút chi bảo” của Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát.
Tham khảo
- Sách “Thiền uyển tập anh”, Lê Mạnh Phát, Viện nghiên cứu Phật học, Nhà xuất bản Văn học năm 1990.
- Sách Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ, DL 1999 PL 2543.
- https://giacngo.vn/to-su-lieu-quan-hanh-tung-thi-ke-thi-tich-post15943.html
Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/