Thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096)

Thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096)
00:11 - 20.05.2024
Mãn Giác Thiền sư (1052 – 1096) tên thật là Lý Trường, quê ở Lũng Chiền làng An Cách. Thân phụ là Hoài Tố làm chức Trung thơ Viên ngoại lang. Thiền sư là người học rộng hiểu sâu, ngay từ khi còn ít tuổi đã tinh thông tam giáo (Nho, Phật, Lão) do đó đã được dự tuyển vào triều đình. Vua Lý Nhân Tông vô cùng mến mộ nên đã ban hiệu là Hoài Tín.

    Cuộc đời và sự nghiệp

    Mãn Giác Thiền sư (1052 – 1096) tên thật là Lý Trường, quê ở Lũng Chiền làng An Cách. Thân phụ là Hoài Tố làm chức Trung thơ Viên ngoại lang. Thiền sư là người học rộng hiểu sâu, ngay từ khi còn ít tuổi đã tinh thông tam giáo (Nho, Phật, Lão) do đó đã được dự tuyển vào triều đình. Vua Lý Nhân Tông vô cùng mến mộ nên đã ban hiệu là Hoài Tín. 

    Khoảng niên hiệu Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084), Thiền sư dâng biểu xin xuất gia, theo học với Thiền sư Quảng Trí. Sau khi được tâm ấn, Ngài thường chống gậy mang bát vân du khắp nơi, để tìm thiện tri thức, Ngài đến nơi nào thường có học giả vân tập đông đảo.

    Vua và  Hoàng thái hậu Cảm Linh Nhân (Ỷ Lan) vô cùng mến mộ tài, đức mong muốn được tham thiền với Mãn Giác nên nên đã dựng nên một ngôi chùa ngay cạnh cung Cảnh Hưng hiệu là Giáo Thiên, thỉnh Mãn Giác Thiền sư về trụ trì.

    Tại đây, Ngài chuyên tâm tu luyện, người trong triều xin tham học rất đông. Vua vô cùng cảm phục trước tài năng và đức hạnh của Ngài đã phong hiệu Giáo Nguyên Thiền Viện, Hoài Tín đại sư truyền Tổ Vô Tu Vô Chứng Tâm Ấn. Ngài phụng chiếu nhận chức Nhập nội Đạo tràng, Tứ tử Đại Sa-môn, Đồng tam ty Công sự. 

    Niên hiệu Hội Phong thứ năm (1096), cuối tháng 11, Thiền sư cáo bệnh rồi tịch  thọ bốn mươi lăm tuổi, được mười chín tuổi hạ. Vua làm lễ hỏa táng thu xá lợi xây tháp thờ tại chùa Sùng Nghiêm làng An Cách và ban thụy là Mãn Giác

    Kệ tịch của Thiền su Mãn Giác

    Trước khi tịch, Thiền sư đọc một bài kệ để dạy đồ chúng:

    Hán văn: 

    告疾示眾 

    春去百花落,

    春到百花開。

     事逐眼前過,

     老從頭上來。 

    莫謂春殘花落盡, 

    庭前昨夜一枝梅。

    Phiên âm 

    Cáo tật thị chúng 

    Xuân khứ bách hoa lạc,

    Xuân đáo bách hoa khai.

    Sự trục nhãn tiền quá,

    Lão tùng đầu thượng lai. 

    Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

    Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

    Dịch nghĩa 

    Cáo bệnh dạy đệ tử.

    Xuân đi trăm hoa rụng

    Xuân đến trăm hoa nở .

    Việc trước mắt qua mãi

    Trên đầu già đến rồi.

    Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết

    Đêm qua sân trước một nhành mai.

    “Bài thơ trên đây được ngài đọc cho chúng đệ tử nghe trước khi mất. Bài thơ với hình thức diễn đạt rất gần gũi đời thường, không dùng một từ nào thuần túy của nhà Phật mà nội dung gợi được nhiều cảm xúc về một chân lý giải thoát cao siêu, đã được truyền tụng rộng rãi từ trước đến nay.

    -Xuân ruổi, trăm hoa rụng/ Xuân tới, trăm hoa cười:

    Có mùa xuân thì có trăm hoa nở. Xuân qua thì hoa tàn. Có duyên thì sinh, hết duyên thì diệt. Đây là lý duyên sinh của nhà Phật, là nội hàm căn bản của quy luật vô thường chi phối vạn vật và con người.

    -Trước mắt, việc đi mãi / Trên đầu, già đến rồi

    Những hiện tượng vô thường sinh diệt kia đâu chỉ diễn ra trước mắt, bên ngoài mà đã len lỏi lên mái đầu rồi. Cái già báo hiệu cho cái chết đã đến gần. Vậy Thiền Sư sẽ truyền đạt điều trọng yếu gì để chúng đệ tử có thể an tâm tu trì sau khi ngài ra đi, và giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi về cái chết mà ngài đang an nhiên đối mặt?

     -Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua, sân trước, một cành mai: 

    Không, không phải mọi sự trên đời đều vô thường, sinh diệt. Trong cảnh xuân tàn trăm hoa rụng hết, còn có một cành mai tồn tại trước sân chùa trong đêm tối chỉ mình ngài nhận biết!

    Đây có lễ là cách nói ẩn dụ của Mãn Giác Thiền sư. “ Đêm qua” ẩn dụ điều Thiền sư muốn nói đã tồn tại nhưng không ai nhìn thấy. Có thể vì người đời vốn vô minh như đang trong đêm tối, cũng có thể vì điều tồn tại đó không có hình tướng nên không ai thấy được. 

    Sân trước’ là trước sân chùa, nơi thiên nhiên thoáng đãng, trời đất và con người giao hòa, phải chăng để ẩn dụ cho cái bản tâm vốn thanh tịnh của con người? Hoa mai là tinh anh của các loài hoa, biểu tượng cho sự khai mở của mùa xuân.

    Thiền sư khẳng định có một cành mai hiển hiện nơi sân trước, phải chăng để chỉ cái tuệ giác sáng suốt đã khai mở nơi cái tâm thanh tịnh của chính Thiền sư, chỉ một mình người nhận biết mà thôi!

    Vậy điều trọng yếu Thiền sư muốn khai thị cho các đệ tử là nếu cái tâm được thanh tịnh trở lại thì vô minh tan biến, tuệ giác sẽ xuất hiện.

    Tuệ giác là sự sáng suốt thấu rõ thực tại, có tuệ giác thì vọng tưởng tham sân si nguồn gốc mọi khổ đau của con người sẽ tiêu trừ. Con người hiểu được cái tuệ giác thường hằng mới thật là mình, thì nỗi sợ về cái chết của thân xác không còn nữa.

    Tuệ giác là mục đích cuối cùng của người tu Phật, chính là cành mai vàng nơi sân trước mà Mãn Giác Thiền sư đang khai thị.

    Mãn giác là có tuệ giác viên mãn tròn đầy. Vì vậy, lời khai thị của Thiền sư là từ cái thấy biết chân thật tròn đầy nên có sức truyền cảm mạnh mẽ, có khả năng đánh thức được cái tuệ giác đang bị vô minh che lấp trong tâm của chúng đệ tử và những người học Phật từ xưa đến nay. 

    Bài thơ trên đây của Mãn Giác thiền sư được ghi trong sách cổ Thiền Uyển Tập Anh và được các nhà Nho nổi tiếng xưa nay như Lê Quý Đôn, Ngô Tất Tố… sưu tầm truyền tụng, đã trở thành một cành mai vàng sống động, là mùa xuân trong đời, có thể xem là biểu tượng cho thơ thiền trong vườn văn học Việt Nam.”

    Tài liệu tham khảo

    1. Thích Thanh Từ,Thiền sư Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh

    2. Hoàng Hạnh, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bình Thuận – Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 1/2024. 

    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline