Hòa thượng Thích Hưng Từ, có thế danh là Bùi Vạn Anh, ngài sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi (1911) tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Ngài có pháp danh là Kiểu Lợi, pháp hiệu Ngộ Chơn, pháp tự Thiện Chơn, thế danh Trần Thanh, sinh năm Giáp Dần (1914), tại xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Ngài là trưởng nam trong một gia đình trung nông Nho giáo, nhưng lại kính ngưỡng Phật giáo.
Ngài có thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh năm Mậu Tý (1888), tại làng Nhơn Thạnh Trung, thị xã Tân An, tỉnh Long An, húy Nhật Phú, pháp tự Như Thuận, pháp hiệu Hoằng Đức.
Ngài có pháp danh là Trừng Nguyện, hiệu Đôn Hậu, thuộc đời thứ 8 phái thiền Liễu Quán, thế danh là Diệp Trương Thuần. Ngài sinh vào ngày 13 tháng giêng năm Ất Tỵ (16-2-1905) tại làng Xuân An, tổng An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Thiền sư Nhất Định pháp danh là Tánh Thiên, người Quảng Trị, sanh năm 1784. Thiền sư xuất gia hồi còn nhỏ, lớn lên được Thiền sư Phổ Tịnh chùa Thiên Thọ làm lễ thế độ cho làm Sa-di. Sau Sư thọ giới Cụ túc với Thiền sư Mật Hoằng ở chùa Quốc Ân. Vâng mệnh vua Gia Long, Sư giữ chức vụ Trụ trì chùa Thiên Thọ.
Thiền sư Tiên Giác Hải Tịnh đã kế thừa hai dòng phái Phật giáo tại Nam Bộ là Lâm Tế gia phổ và Lâm Tế chánh tông. Hai dòng phái này đã phát triển và lan rộng khắp vùng đất Nam Bộ. Thông qua hành trạng của Ngài cho thấy sự đóng góp vô cùng to lớn cho Phật giáo Nam Bộ.
Phạm Ngũ Lão (1255–1320) là danh tướng nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1288. Đương thời, danh tiếng của ông chỉ xếp sau Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – người được xem như vị tướng vĩ đại nhất lịch sử quân sự Việt Nam.
Đức ông Phạm Tu (chữ Hán: 范 脩, 476-545) Tiền Lý triều Tả tướng, Trưởng Ban võ của nhà nước Vạn Xuân, công thần khai quốc nhà Tiền Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân đội nhà Lương, thành lập nước Vạn Xuân độc lập. Phạm Tu sinh ngày 10 tháng 3 năm Bính Thìn (tức 19 tháng 4 năm 476), cha ông là Phạm Thiều, người gốc Yết (Hung Nô), mẹ là Lý Thị Trạch tại trang Quang Liệt, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Sĩ Nhiếp hoặc Sĩ Tiếp (chữ Hán: 士燮; 137 – 226) là Thái thú Giao Chỉ vào cuối đời nhà Hán. Qua giai đoạn Tam Quốc, ông cát cứ và cai trị Giao Châu như một quốc gia độc lập từ 187 đến 226.
Lê Tuấn Mậu (chữ Hán: 黎俊楙) là đô ngự sử thời Lê sơ, đỗ tiến sĩ vào năm 1490, sau bị Mạc Đăng Dung giết. Đến thời Lê Trung Hưng thì được truy phong phúc thần. Theo một vài nguồn thì ông còn là một thượng thư.
Cụ Dương Khuê (1839-1902), hiệu Vân Trì, xuất thân trong một gia đình nhà Nho; là con cả Đô ngự sử Dương Quang, và là anh ruột của danh sĩ Dương Lâm; quê ở làng Vân Đình huyện Sơn Minh phủ Ứng Hòa tỉnh Hà Đông (nay thuộc thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội).
Nhà Triệu hay nước Nam Việt nói chung là một triều đại có nhiều điểm đặc biệt, khiến các sử gia đời sau không khỏi lúng túng. Người thì phân nhà Triệu vào trong lịch sử nước ta, người lại cho rằng không phải. Tuy nhiên có hai chuyện mà chúng ta biết rất rõ: Triệu Đà là người xưng ngôi Hoàng đế đầu tiên ở đất Việt; và nhà Triệu đã dám giết sứ thần nhà Hán và những kẻ phản bội định dâng nước Việt cho nhà Hán. Trong việc chống lại phương Bắc của nước Nam Việt thời kỳ này, không thể không nhắc tới thừa tướng Lữ Gia. Ông là một vị quan đại thần gắn bó với Giang Sơn trong lúc gian nguy chống lại quân Hán xâm lược.