Thiền sư Khánh Long chưa rõ quê quán, tông phái và hành trạng; chỉ biết Sư lập chùa Khánh Long ở gò Quít huyện Phước Chánh, trấn Biên Hòa. Cảnh chùa Khánh Long được du khách đặt bài thơ ca ngợi như sau:
Ni cô họ Lê thế danh là Lê Thị Nữ, không biết quê quán ở đâu, chỉ biết lúc chưa xuất gia cô thuộc gia đình nhà giàu, trẻ đẹp, hiếu thảo, lo phụng dưỡng cha mẹ, không chịu lấy chồng. Sau khi cha mẹ mất mới chịu xuất giá, nhưng không bao lâu thì chồng chết. Bà không chịu tái giá, nhưng bị nhà quyền thế áp bức, vì vậy bà xuống tóc xuất gia tu hành.
Ni cô họ Tống thế danh là Tống Thị Lương là con một nhà giàu ở Hà Tiên, thùy mị, siêng năng, giỏi về nữ công, giàu nữ hạnh.
Thiền sư Sùng Phạm (1004 – 1087) (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi).
Thiền sư Giác Hải (覺海, 1024 (? 1023) – 1138) là người họ Nguyễn, húy Nguyễn Viết Y (Nguyễn Quốc Y), pháp hiệu Giác Hải tính chiếu đại sư bài vị chùa Viên Quang ghi Diệu thông xung mặc hoằng hóa đại pháp sư là thiền sư Việt Nam thời nhà Lý, thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông.
Hòa thượng Minh Vật Nhất Tri thuộc phái thiền Lâm Tế đời pháp thứ 34
Thiền sư Thành Đẳng Minh Lượng là đệ tử của Tổ sư Nguyên Thiều Siêu Bạch, thuộc phái thiền Lâm Tế, thế hệ thứ 34, hiện chưa biết rõ quê quán và hành trạng của Ngài…
Phật Ý Linh Nhạc (1725-1821) là một thiền sư Việt Nam. Ông là người truyền bá dòng đạo Bổn Nguyên thuộc Lâm Tế tông vào miền Nam Việt Nam trước tiên và là người xây dựng chùa Từ Ân, rồi biến nơi đó thành một trung tâm Phật giáo ở Gia Định vào giữa thế kỷ XVIII.
Thiền sư Tịnh Không (? – 1170) đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông.
Thiền sư Đại Xả (1120 – 1180) đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông.
Thiền sư Tín Học (? – 1190), đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông.
Thiền sư Trường Nguyên (1110 – 1165) đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông, trụ tại Sóc Thiên Vương Tự, núi Vệ Linh, chợ Bình Lỗ.