Thiền sư Tịnh Lực (1112 – 1175) đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông. Thiền sư họ Ngô tên Trạm, quê ở Cát Lăng, Vũ Bình. Thuở nhỏ, Sư rất thông minh, lớn lên càng giỏi về văn chương, nghệ thuật và chữ viết.
Thiền Sư Nguyện Học (? – 1174), đời thứ 10, Thiền Phái Vô Ngôn Thông.
Thiền sư Minh Trí (明智, ? -1196), thế danh Tô Thiền Trí (蘇禪智); là thiền sư Việt Nam thời nhà Lý, thuộc thế hệ thứ 10 thiền phái Vô Ngôn Thông. Thiền sư quê ở làng Phù Cầm. Tư chất thông minh, đọc khắp sách vở ngoài đời. Thiền Sư Minh Trí là đệ tử cuối cùng của thiền sư Đạo Huệ.
Thiền sư Tịnh Giới (?-1207) họ Chu tên là Hải Ngung, người đất Giang Mão. Xuất thân trong gia đình hàn vi, nhưng tánh tình Sư rất thuần hậu, lúc nhỏ theo học Nho. Đến năm hai mươi sáu tuổi, Sư mang bệnh nặng, mộng thấy thần nhân cho thuốc. Tỉnh giấc, bệnh được lành, Sư bèn quyết chí xuất gia. Theo một vị kỳ túc trong làng, Sư được thọ giới Cụ túc và chuyên nghiên cứu về Luật tạng.
Thiền sư Quảng Nghiêm (1121-1190) là người làng Đan Phượng, họ Nguyễn, đắc pháp với thiền sư Trí Thiền. Sư thuộc dòng Vô Ngôn Thông đời thứ 11. Cha mẹ mất sớm nên Người theo cậu là Bảo Nhạc, sau khi cậu mất, sư hành cước phương xa và gặp được thiền sư Trí Thiền đang khai đàn giảng pháp, Ngài thọ học và đắc pháp với thiền sư Trí Thiền. Sau khi đắc pháp, Ngài hành đạo theo ý chỉ của thiền tông. Ngày rằm tháng hai năm Canh Tuất (1190), Sư chắp tay nói bài kệ và giã biệt mọi người.
Thiền sư Pháp Loa (1284 – 1330), theo sách Tam tổ thực lục thì Sư sinh giờ Mão, ngày 7 tháng 5 năm Giáp Thân tại thôn Đồng Hòa, hương Cửu La, bên bờ sông Nam Sách. Cha là Đồng Thuần Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu. Một đêm nọ mẹ Sư nằm mộng thấy có người trao thanh kiếm thần, bà thích lắm nhận lấy và từ đó mang thai Sư. Do sinh liên tiếp 8 người con gái nên bà có ý hủy thai, nhưng uống thuốc phá thai đến bốn lần vẫn không thực hiện được ý định của mình, đến khi sinh Sư, bà mừng lắm đặt tên là Kiên Cương.
Trong sách Thiền uyển tập anh có ghi chép về Sư như sau: Chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức, người làng Phù Ninh, họ Phạm. Triều Lý Cao Tôn, Sư làm quan Lệnh đô tào ở cung Quảng Từ. Sau từ quan, đi học pháp xuất thế với Quảng Nghiêm chùa Tịnh Quả, bèn chính thân được tâm ấn. Sư hầu thầy nhiều năm, rồi đến ở ngôi chùa xưa tại làng Ông Mạc(1) để giảng diễn giáo chỉ. Sau đó rời sang chùa Lục Tổ. Môn đồ Sư càng ngày càng đông.
Thiền sư Thần Nghi (? – 1216) đời thứ 13, dòng Vô Ngôn Thông. Thiền sư là người họ Quách, quê ở Ngoại Trại, gia đình tu hành trong sạch.
Chú thích số 1 trong bài viết Tiểu sử và sự nghiệp của đệ tam tổ thiền phái Trúc Lâm Huyền Quang của tác giả Nguyễn Minh Tường cho biết: “Họ tên thật của Huyền Quang, nhiều sách chép khác nhau: Trần Đạo Tái (Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển); Lý Tải Đạo (Tam tổ thực lục); Lý Đạo Tái (được nhiều sách nói đến)”.
Sư hiệu là Quán Viên ở chùa Đông Sơn, giới hạnh thanh bạch, tuệ giải tròn đầy, mấy mươi năm mà không xuống núi. Vì tài liệu về Quán sư rất ít nên không biết Sư tịch lúc nào, ở đâu và thuộc hệ phái nào.
Sư người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai, họ Nguyễn, tên Bình An, đạo hiệu là Đức Minh. Cha tên Hương, mẹ là Trần Thị Hoa. Một hôm, mẹ mộng thấy Phật giáng hạ, rồi có mang sinh ra Sư. Năm lên sáu tuổi, cha mẹ mất cả, phải ở nhà bà cô. Cô vốn nhà làm ruộng, bắt Sư chăn trâu. Sư vẫn còn nhỏ, nhưng rất mộ đạo Phật, ở túp nhà tranh bên đường, bày bàn thờ Phật bên tả, thường lấy cơm làm oản cúng.