Ni sư họ Phạm, con gái của một gia đình đời đời làm quan. Ni sư xuất gia tu ở am trên núi Thanh Lương. Ni sư tu khổ hạnh, trì giới chuyên cần, tuệ giải thông suốt, thường ngồi thiền định, diện mạo giống hệt La-hán. Kẻ đạo người tục xa gần đều kính mộ, danh tiếng Ni sư lừng lẫy, là bậc tông sư của Ni chúng cả nước, tên tuổi ngang hàng với các bậc Cao tăng. Vua Trần Nghệ Tông (1370-1372) ban hiệu là “Tuệ Thông đại sư”.
Lý Thường Kiệt là một nhân vật lịch sử kiệt xuất của dân tộc Việt Nam hồi thế kỉ XI, ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ và bà Hàn Diệu Chi. Ngô An Ngữ là tướng của Khai Quốc Vương Lý Long Bồ – người con trai thứ hai của Lý Thái Tổ.
Chu Mạnh Trinh (Nhâm Tuất 1862 – Ất Tỵ 1905) là danh sĩ, tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân; quê ở làng Phú Thọ, huyện Đông Anh, Phủ Khoái Châu (nay là xã Mễ Sở, huyện Châu Giang), tỉnh Hưng Yên. Ông là một nhà nho nổi tiếng có tài văn phú và sự phóng khoáng hào hoa, thành thạo cả cầm, kì, thi, họa và còn giỏi cả về kiến trúc.
Nguyễn Khuyến (chữ Hán: 阮勸), tên thật là Nguyễn Thắng (阮勝), hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ. Ông có một người bạn tri kỉ tên là Dương Khuê.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491) còn có tên là Văn Đạt, tên chữ là Hanh Phú, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng).
Mạc Đĩnh Chi sinh năm 1280, tên tự là Tiết Phu, quê ở làng Lũng Động (Chí Linh). Tương truyền ông mồ côi cha từ nhỏ, hằng ngày phải vào rừng chặt củi kiếm sống, nuôi mẹ. Vì dáng người thấp bé, dung mạo xấu xí nên ông thường bị trêu chọc, khinh rẻ.
Đại sĩ Thông Thiền (? – 1228) đời thứ 13, dòng Vô Ngôn Thông. Thiền sư là người họ Đặng quê làng Ốc, An La. Ngài là vị thiền sư đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Vào lúc khởi đầu, việc truyền thừa trong Thiền tông thường âm thầm diễn ra giữa một thầy một trò, nên ít người biết đến. Càng về sau, khi căn cơ chúng sinh ngày càng thuần thục, có nhiều người tin hiểu và thực hành được pháp thiền này, nên Thiền tông ngày càng hiển lộ trước mắt đại chúng. Do lúc đó đức Thế Tôn đã nhập diệt, đại chúng chỉ thấy được Thiền tông qua sự chỉ dạy của các vị Tổ sư, nên gọi là Tổ sư thiền.
Thiền sư Hiện Quang (現光, ? – 1221), là một thiền sư thuộc đời thứ 14 phái thiền Vô Ngôn Thông, và là vị tổ khai sơn phái thiền Trúc Lâm Yên Tử trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Thiền sư thế danh là Lê Thuần, quê ở thành Thăng Long, tiếng nói êm ái, dung mạo xinh đẹp, mồ côi từ thuở nhỏ, nếm đủ mùi gian nan.
Thiền sư Tức Lự, đời thứ 14, Thiền Phái Vô Ngôn Thông và đệ tử của Ngài là Cư Sĩ Ứng Thuận, đời thứ 15 Thiền Phái Vô Ngôn Thông, đây cũng là 2 vị cuối cùng của Thiền phái này ở Việt Nam. Đạo hiệu của Thiền sư Tức Lự rất hay, Tức là bặt dứt, Lự là suy lường. Tức Lự là bặt dứt suy lường là điểm đến cuối cùng của thiền tông, là chỗ rốt ráo không còn suy nghĩ nữa, đó lá tánh biết lặng lẽ, rõ biết đại dụng hiện tiền.
Thiền sư Hương Hải (1628 – 1715), tục gọi là Tổ Cầu, là một thiền sư Việt Nam ở thời Hậu Lê. Sư và thiền sư Chân Nguyên là hai người đi đầu trong công cuộc phục hưng phái thiền Trúc Lâm đã có từ thời nhà Trần.
Cư sĩ Ứng Thuận Vương là thiền sư đời thứ 15, dòng Vô Ngôn Thông. Thế danh của Thiền sư là Đỗ Văn, quê phường Hoa Thị, kinh đô Thăng Long. Tánh tình khoáng đạt không chịu đeo đuổi theo việc đời. Ban đầu làm chức quan trong triều Chiêu Lăng (Trần Thái Tông), đến hàng Trung phẩm Phụng ngự.