Tổ Trung Hậu – Hòa thượng Thích Trừng Thanh (1861 – 1940)

Tổ Trung Hậu – Hòa thượng Thích Trừng Thanh (1861 – 1940)
23:17 - 13.05.2024
Tổ Trung Hậu là một nhân vật tuyệt vời của Phật giáo, thường được gọi là Tổ Trung Hậu. Chùa Trung Hậu, nơi mà Ngài đã dành phần lớn cuộc đời tu hành và giảng dạy. Hòa thượng Thích Trừng Thanh, thế danh Nguyễn Ất và pháp hiệu Thanh Ất, chào đời vào năm Tân Dậu (1861) tại làng Thượng Trưng, tổng Thượng Trưng, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên.

    Thân thế

    Tổ Trung Hậu là một nhân vật tuyệt vời của Phật giáo, thường được gọi là Tổ Trung Hậu. Chùa Trung Hậu, nơi mà Ngài đã dành phần lớn cuộc đời tu hành và giảng dạy.

    Hòa thượng Thích Trừng Thanh, thế danh Nguyễn Ất và pháp hiệu Thanh Ất, chào đời vào năm Tân Dậu (1861) tại làng Thượng Trưng, tổng Thượng Trưng, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên.

    Cơ duyên tu hành

    Cuộc hành trình tu đạo của Ngài bắt đầu khi Ngài mới 12 tuổi (1873), khi thân mẫu dẫn Ngài đến chùa Trung Hậu vãng cảnh ở Phúc Yên. Thấy Ngài có cốt cách khác phàm, vầng trán cao rộng, với đôi mắt sáng, Hòa thượng đệ nhị Sư Tổ đem lòng yêu mến thọ ký và cơ duyên tốt lành. Ấy là lúc Hòa thượng đệ nhị Sư Tổ phát hiện tài năng và tâm nguyện của Ngài, và Ngài được gia đình ủng hộ, chấp thuận xuất gia.

    Ngài xuất gia đầu Phật và quy y với đệ nhị Sư Tổ chùa Trung Hậu, nơi Ngài tận tụy học đạo và tu hành. Trong quá trình này, Ngài thọ Sa Di giới ở tuổi 15 (1876) và Cụ Túc giới ở tuổi 20 (1881).

    Sau đó, Ngài tiếp tục học tập tại trường Phật học Hạ Lôi, rồi tham gia nghiên cứu kinh tạng tại chùa Bồ Đề ở huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hà Nội). Thời gian sau đó, Ngài di chuyển đến chùa Liên Phái ở Hà Nội, chuyên tâm tu theo pháp môn niệm Phật hướng nguyện sinh về Tây phương Lạc quốc.

    Ngài nổi tiếng với công phu niệm Phật sâu sắc. Mỗi khi rảnh rỗi, Ngài chỉ cần hướng về phương Tây và niệm Phật, chuỗi hạt trên tay Ngài xoay vòng không ngừng, chứng tỏ sức mạnh chánh niệm sâu sắc của Ngài.

    Những đóng góp cho Phật giáo

    Năm 1901, Ngài trở về chùa Trung Hậu để tiếp đăng trụ trì sau khi Bổn sư qua đời, và từ đó, Ngài luôn ổn định tại chùa này cho đến khi viên tịch. Vì lẽ đó, chúng Tăng và thiện tín thường gọi Ngài là Tổ Trung Hậu hay Tổ Trung.

    Tổ Trung là một trong những Hòa thượng có ảnh hưởng lớn trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc vào đầu thế kỷ XX. Ngài quan niệm, hiểu rõ rằng Phật pháp, Tăng già tu học cần phải nắm vững Luật trước hết. Do đó, nên khi bắt tay vào việc hoằng pháp, Ngài đã khởi công cho đệ tử vào trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội để sao chép bộ Tứ Phần Tiêu Thích, nhằm phục vụ cho việc học tập tại các nơi. Sự đóng góp của Ngài đã đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của Phật giáo Việt Nam.

    Ngài nhận thức rõ rằng Phật giáo, từ lâu, đã trải qua quá trình suy vi vì việc Tăng già chia rẽ thành nhiều sơn môn. Sự phân chia này dẫn đến tình trạng mỗi sơn môn chỉ quan tâm đến riêng mình, làm mất đi ý nghĩa của Tăng già là hòa hợp. Điều này làm cho hàng ngũ Tăng già trở nên rời rạc, thiếu sự nhất trí trong thanh quy, và còn thiếu đi tinh thần đồng lòng của Tứ nhiếp pháp.

    Chính vì nhận thức sâu sắc về tình hình này, Ngài đặt ra một nhiệm vụ lớn cho mình, sử dụng những ngày còn lại của cuộc đời để hoạt động cho phong trào chấn hưng Phật giáo. Ngài hết sức tha thiết và nhiệt huyết, tỏ ra rất quan tâm đến việc khích lệ Tăng già đoàn kết, hợp nhất, và tái thiết gia phong Phật tự.

    Khoảng năm 1930, Ngài lập nên một chốn tùng lâm ở ngoại ô Hà Nội, được bảo vệ bởi hào lũy, với từng khu Tăng viện, Ni viện và Phật điện bên trong. Nơi này không chỉ là nơi học tập và tu hành, mà còn có ruộng đất để sản xuất thực phẩm, và một khu vực nghĩa địa. Chốn tùng lâm luôn mở rộng cửa để đón nhận tất cả Tăng Ni từ khắp nơi, mang lại cho họ sự bảo vệ từ bi và khả năng tu học trọn đời, không còn phải chịu sự áp đặt của xã hội.

    Khi phong trào chấn hưng Phật giáo đang lên cao ở ba miền Nam Trung Bắc, Ngài vẫn tiếp tục đóng góp mạnh mẽ cùng với một số Tăng hữu và cư sĩ để thành lập Hội Bắc kỳ Phật giáo vào cuối năm 1934. Ngài đã mời và cung thỉnh Tổ Vĩnh Nghiêm – Hòa thượng Thích Thanh Hanh làm Thiền gia Pháp chủ. Sau đó, vào năm 1938, Hòa thượng Thanh Tường trở thành trụ trì chùa Vô Thạch ở Hà Nội, tiếp theo ngôi đệ nhị Thiền gia Pháp chủ.

    Trong buổi sơ khai, hội Bắc kỳ Phật giáo đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, công việc rất bận rộn. Ngài đã đóng góp một phần quan trọng, hỗ trợ Tổ Vĩnh Nghiêm và Ban quản trị trong việc điều chỉnh mọi hoạt động, và dưới sự lãnh đạo của Tăng tục thập phương, hội Bắc kỳ Phật giáo trở nên mạnh mẽ hơn. Ngài cũng đảm nhận chức vụ Trưởng ban Thiền học, tổ chức các trường Phật học. Mặc dù nhiều khi gặp khó khăn về mặt tài chánh, và nhiều người đều đề xuất giải tán nhà trường, nhưng Ngài vẫn kiên quyết duy trì, tìm kiếm mọi giải pháp để Tăng Ni có thể yên tâm tu học. Công việc đa đoan, nặng nhọc như vậy, nhưng trong hai ba năm đầu, cùng với chư Tăng tham gia các khóa hạ, Ngài vẫn thực hiện ba khóa lễ mỗi ngày mà không chút trễ nải.

    Khi công việc của hội đang bắt đầu ổn định, Thiền gia Pháp chủ Thanh Hanh, người đang đứng đầu hội, bất ngờ viên tịch. Trong khoảnh khắc chờ đợi cung thỉnh một Pháp chủ mới, Ngài đã phải đảm nhận vai trò lãnh đạo ban Kỳ Túc, đồng thời chịu trách nhiệm thay thế mọi nhiệm vụ, đặc biệt là việc khởi công xây dựng chùa Hội Quán.

    Thời kỳ viên tịch

    Ngài đã đảm nhiệm chức vụ Chánh Đốc công trong suốt hai năm, trong tình trạng mọi việc đều đối mặt với nhiều khó khăn và thiếu thốn. Công việc gần như hoàn thành vào ngày mồng 3 tháng chạp năm Canh Thìn (1940), khi Ngài, mặc dù không bị bệnh tật, đột ngột viên tịch, thọ 80 tuổi, trong đó có 60 năm tu hành.

    Tổ Trung Hậu, ngoài công lao lớn trong việc kiến tạo tòng lâm để tiếp đón Tăng độ chúng, còn đóng góp tích cực vào xây dựng hàng trăm ngôi chùa lớn nhỏ trên khắp miền Bắc. Trong bước ngoặt quan trọng của phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc, Ngài là bậc khai sơn đặt nền tảng cho sự lớn mạnh của bao thế hệ Tăng Ni kế thừa, đồng thời góp phần quan trọng vào lịch sử giai đoạn đầy biến động của Phật giáo Việt Nam. Ngày nay, hầu hết các chùa ở Hà Nội vẫn thờ tượng Ngài như một biểu tượng tôn kính, tưởng nhớ bậc khai sơn đã để lại dấu ấn rõ ràng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

    Tham khảo

    • Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, TT. Thích Đồng Bổn, thành hội Phật giáo TP. HCM. 1995
    Nguồn trích dẫn: https://chonthieng.com/
    Map
    Zalo
    Hotline