Tứ Vị Vua Bà là ai ?
Tục thờ tứ vị thánh nương là một trường hợp độc đáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, phản ánh tâm thức của người Việt về một nữ thần ngoài nước du nhập vào Việt Nam. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ, Tứ Vị Vua Bà là vị Mẫu Thần được phối thờ cùng hệ thống thần điện. Nhân dân vùng duyên hải nước ta tin rằng bà có quyền phép linh thiêng sẽ phù hộ cho mưa gió thuận hòa, nhân dân làm ăn thuận lợi, có tiền có của, bình yên, êm ấm, cho những chuyến đi biển được bình an may mắn.
Tứ Vị Thánh Nương là Thái hậu Dương Quý Phi và hai cô công chúa con của Thái Hậu và bà nhũ mẫu nuôi hai cô công chúa. Tứ Vị Thánh Nương là người nhà Tống Trung Quốc. Thái hậu Dương Quý Phi được thờ chính tại đền Cờn (Nghệ An) và đền Mẫu (Hưng Yên). Bà có công phù hộ cho các triều vua đánh giặc nên được phong là Mẫu.
Tôn hiệu bà được ghi chép lại rất đa dạng, và thường thấy trong các thần tích là :
-
Đại Càn tứ vị Thánh mẫu (Ninh Bình)
-
Đại Càn quốc gia Nam hải tứ vị thánh nương (Hà Nội)
-
Đại Càn quốc gia Nam hải tam tòa tú vị hồng thánh nương đại nương (Nam Định)
-
Nam Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương Càn hải linh từ (Hà Nam)
-
Tứ thánh miếu sự tích (Bắc Ninh)
Thần tích Tứ Vị Vua Bà
Nhân vật trung tâm trong tứ vị thánh nương liên quan tới một nhân vật lịch sử nổi tiếng dưới thời Nam Tống ở Trung Quốc. Sử liệu Trung Quốc, tác giả Long Bằng (người Trung Quốc) đã ghi lại giai đoạn lịch sử bi tráng liên quan đến Dương Thái Hậu như sau:
“Năm 1276, kinh đô Lâm An của nhà Nam Tống rơi vào tay quân đội Mông Cổ, vua nhà Tống là Tống Cung Tông cũng bị bắt làm tù binh. Dương Thục phi (phi tử của Tống Độ Tông) đưa hai hoàng tử bé là Triệu Thị, Triệu Bính chạy về phía Nam qua đường biển, cùng những văn thần, võ tướng tiếp tục bất khuất chống Nguyên…
Dương Thái hậu biết tin Đế Bính đã chết, bèn khóc than rằng: “Ta từ ngàn dặm xa xôi đến đây, cũng là vì cốt nhục của nhà Triệu, hôm nay chết rồi, ta còn sống được nữa ư?”. Nói rồi cũng nhảy xuống biển tự tử. Hôm sau trên biển nổi lên hơn 100 nghìn thi thể. Nhà Nam Tống bị diệt vong.”1
Đại Việt sử ký toàn thư chép về sự kiện này như sau:
“(Hưng Long) năm thứ 19 (1311)… Mùa đông, tháng 12, vua thân đi đánh Chiêm Thành, vì chúa nước ấy là Chế Chí phản trắc… (Hưng Long) năm thứ 20 (1312)… Mùa hạ, tháng 5, dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về… Tháng 6, vua từ Chiêm Thành về (đến kinh đô)…
Lập đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải. Trước đây, vua đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (trước là Càn, tránh tên húy đổi là Cần), đóng quân lại, đêm nằm mơ thấy một thần nữ khóc lóc nói với vua: “Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp phải sóng gió, trôi dạt đến đây. Thượng đế phong thiếp làm thần biển đã lâu.
Nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công”. Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lão tới hỏi sự thực, cho tế, rồi lên đường. Biển vì thế không nổi sóng. (Quân vua) tiến thẳng tới thành Đồ Bàn, bắt được (chúa Chiêm) đem về. Đến nay, sai hữu ty lập đền, bốn mùa cúng tế”.2
Đền thờ tứ vị thánh nương được vua ban tặng sắc phong ghi nhận công trạng “Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương”, cấp tiền bạc sửa sang, xây dựng khang trang, nhờ đó mà danh tính của vị thần thờ trở nên linh thiêng trong tâm thức của người dân.
Đền thờ tứ vị thánh nương được vua ban tặng sắc phong ghi nhận công trạng “Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương”, cấp tiền bạc sửa sang, xây dựng khang trang, nhờ đó mà danh tính của vị thần thờ trở nên linh thiêng trong tâm thức của người dân.
Một số thần tích khác
Sự tích ở đền Mẫu – Hưng Yên
Truyện kể rằng, sau khi Nam Tống thất thủ, bà quý phi họ Dương đã nhảy xuống biển. Thi thể của bà xuôi theo dòng nước trôi về Phố Hiến. Nhân dân ở đây thương xót nên chôn cất chu đáo cẩn thận thi thể của bà. Rồi đến người nội thị triều đình Bắc Quốc là quan thái giám họ Di trong cơn loạn lạc cũng đã tới Phố Hiến. Tại đây được nhân dân giúp đỡ, đã tập hợp những người Hoa lánh nạn rồi hưng công lập nên làng Hoa Dương. Sau khi vị thái giám này mất, họ tôn người này làm Thành Hoàng và chôn cất kín đáo trong khuôn viên đình Hiến. Tại đền, cũng có đặt tượng thờ Dương Phi cùng 2 người hầu là Kim Thị và Liễu Thị.
Sự tích Tứ Vị Vua Bà theo bản ghi chép tay chữ Hán Nôm cuốn “Thanh Chương huyện chí”
Trong sách có ghi về một sự việc khi hoàng hậu một triều vua bị vu oan là con đẻ “bất thành nhân dạng”. Nên bốn mẹ con tức hoàng hậu, 2 cô công chúa cùng vị hoàng tử bị đày lên đảo. Tuy nhiên, thuyền gặp nạn và dạt vào đền cửa Cờn nhưng cả 4 mẹ con đều đã bị chết ở đó. Ngọc Hoàng biết chuyện lấy làm thương xót đã phong họ làm thần chuyên phụ trách việc gió mưa ở biển nơi đây. Nhân dân thấy được sự linh ứng đã lập đền thờ Tứ Vị Đại Vương. Vì có một hoàng tử nên, thay vì gọi là Tứ Vị Vua Bà, họ gọi là Tứ Vị Đại Vương.3
Sự tích Tứ Vị Vua Bà được chép trong thần tích làng Cơ Xá (đền Lộ)
Thần tích kể lại rằng 4 vị thần được thờ đó chính là Hoàng hậu và ba công chúa triều Tống. Hoàng hậu là người con gái ở Cần Hải, Hoang Châu. Sau bà làm vợ của Tống Đế Bính. Bà sinh được 3 cô công chúa nhưng sau khi gặp nạn trôi dạt vào cửa Cờn. Sau đó, khoảng cuối nhà Trần, khi ấy nước sông Nhị Hà lên cao. Bỗng xuất hiện 4 có nồi úp dưới cái nón trôi dạt vào bờ sông thuộc bản xã. Khiến nơi đây không an ổn. Lúc ấy có vị thần báo mộng cho nhân dân phải lập đền thờ mới được yên lành. Nhân dân đã lập đền thờ và cúng bái. Thần tích này xuất hiện sau các thần tích kể trên.
Thời gian khánh tiệc Tứ Vị Vua Bà
Đền Cờn hàng năm đều tổ chức lễ hội vào ngày 20, 21 tháng Giêng là ngày tiệc Tứ Vị Vua Bà đền Cờn Môn.
Lễ Tứ Vị Vua Bà gồm những gì?
Hàng năm cứ đến ngày đầu xuân năm mới hoặc ngày tiệc lễ Tứ Vị Vua Bà, nhân dân khắp nơi lại nô nức sắm lễ, quần áo chỉnh tề lên cửa Tứ Vị Vua Bà và cúng lễ. Điểm đặc biệt ở đây là, các đền thờ Tứ Vị Vua Bà thu hút rất nhiều ngư dân miền biển đến dâng lễ. Bởi người ta cho rằng các bà có quyền phép cao siêu, điều khiển thời tiết vùng biển. Xin lộc các bà ắt sẽ được yên ổn làm ăn nơi biển cả mênh mông.
Một mâm lễ Tứ Vị Vua Bà gồm các thức lễ như một đĩa hoa, một đĩa quả gồm nhiều loại quả, một cơi trầu, quả cau, cút rượu, xôi thịt, nén hương, giấy tiền, và một cánh sớ.
Thông thường sau khi dâng tiến những lễ vật này, đợi hết một tuần hương, bạn sẽ phải hạ toàn bộ những lễ vật này xuống, riêng cánh sớ và giấy tiền phải đem đi hóa.
Bản văn Tứ Vị Vua Bà
Hoa thơm hoa nở bốn mùa
Trên ngàn xanh đua sắc hương bay
Gió rung cây lay lay cành lá
Nhác trông lên nhang xạ ngát mùi
Cảnh rừng núi anh linh lừng lẫy.
Nức danh thơm đã dậy muôn phương
Vẻ cốt cách hình dung tươi tốt,
Nét thanh tân tuyết nhường màu da
Gió thoảng đưa mái tóc rườm rà
Con tiến dâng văn tứ vị vua bà
Cờn môn nơi ấy bao xa
Danh lam cổ tích một tòa ngôi cao
Cảnh bồng lai tiêu giao một thú
Khi ngao du bến thủy sông thao
Lạng Sơn Yên Bái Nghệ An ra vào
Vận bốn mùa cầu đảo khói nhang
Khi ngự đèo kẻng lại sang Bảo Hà
Thượng ngàn nức tiếng vua bà
Ban tài tiếp lộc gần xa cho đồng
Nguyện tâm thành sở cầu tất ứng
Sắm lễ trình ắt thời chứng cho
Vua bà chứng cho tai qua nạn khỏi
Cứu người đời thoát mọi trầm luân
Nước tiên tẩy sạch bụi trần
Lưu tài giáng phúc độ trì muôn dân
Ân trên ghi nhớ đời đời
Ngồi lặng nhìn hoa rơi lai láng
Bức rèm châu thấp thoáng sang canh
Đệ tử con một dạ lòng thành
Cứu xin vua bà ngự giáng chứng minh
Độ cho đệ tử khang ninh thọ trường
Dù ai lưu xứ xa phương
Nhớ ngày mở hội về cờn môn
Lòng tôn kính dâng hương bái thánh
Độ cho người phúc thọ trường sinh
Cửa nhà phú quý khang vinh đời đời
Dưới trần gian mấy lời kêu tấu
Từ cổ triều lưu dấu anh linh
Xe loan thánh giá hồi cung.
Thờ phụng
Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hiện rất phổ biến ở nhiều làng người Việt ven biển từ Bắc vào Nam, ngoài ra còn thấy ở các làng ven biển Trung Bộ. Tuy nhiên tục thờ này phổ biến nhất là miền biển duyên hải miền Trung Bộ, mà trung tâm là Đền Cờn (Nghệ An). Hàng năm, lễ hội đền Cờn lại được tổ chức trong thể với nhiều hoạt động mang nét tâm linh được diễn ra. Đền Cờn là một trong bốn ngôi đền linh thiêng bậc nhất ở Nghệ An: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”
Đền Cờn (Nghệ An)
Đền Cờn là một ngôi đền nằm trên gò Diệc, hướng mặt ra sông Hoàng Mai. Đền thuộc địa phần phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, Nghệ An.
Năm 1993, Đền Cờn là di tích văn hóa cấp quốc gia. Năm 2017, Lễ hội Đền Cờn được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Năm 2017, đền được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vô cùng quý giá.
Lễ hội đền Cờn được mệnh danh là một trong những lễ lớn và linh thiêng nhất. Tại ngày diễn ra đại lễ, người dân tiến hành rất nhiều các phần lễ nhỏ có thể kể đến lễ khai quang, lễ yết cáo, lễ khai hội, lễ cầu ngư, lễ hợp tế, lễ yết vị, lễ đại tế và lễ tạ. Sau phần đại lễ là tới phần hồi. Phần hội chủ yếu phục vụ du khách gần xa tới tham quan, chiêm ngưỡng nét đặc sắc văn hóa đền Cờn với các làn điệu hát dân ca, các môn thể thao dân gian như đẩy gậy, đua thuyền, …
Đền Đại Lộ (Hà Nội)
Đền Đại Lộ hay thường gọi là đền Lộ, thuộc thôn Đại Lộ, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội. Đền Đại Lộ thờ Tứ Vị Thánh Nương chính là mẹ con Thái Hậu Dương Quý Phi. Đền Đại Lộ nằm trong cụm di tích tâm linh với bốn đền: Chùa Ngọc Minh, Đền Mẫu Cửu thờ Mẫu Cửu Trùng Thiên, Đền Dầm thờ Mẫu Thoải và Đền Đại Lộ.
Đền Đại Lộ được công nhận di tích tâm linh năm 2014.
Theo văn bia từ thời vua Bảo Đại còn được lưu giữ ở đền thần tích về Đền Đại Lộ như sau: “Tương truyền vào cuối nhà Trần, khi ấy nước sông Nhị Hà lên to, bỗng nhiên có 4 cái nồi úp dưới cái nón trôi dạt vào bờ sông thuộc bản xã, khiến bản xã không yên ổn. Giữa lúc đó có vị thần báo mộng phải lập ngay đền thờ Tứ Vị Thánh Nương thì mới được yên. Dân làng thấy vậy bèn dựng ngay đền thờ ở đây”.
Trong dân gian tương truyền rằng nơi đây ngày xưa có một thương nhân vùng Nghệ An, nơi thờ chính của Tứ Vị Thánh Nương ra vùng Xâm Dương buôn bán. Xâm Dương ngày xưa là một cửa sông buôn bán tấp nập, trên bến, dưới thuyền. Ông đã đưa chân nhang ra đây để lập một miếu nhỏ. Mọi người quan vùng đến xin lộc mua may bán đắt đều linh nghiệm. Qua nhiều đời, ngôi miếu đã trở thành Đền Đại Lộ to đẹp và khang tranh như ngày hôm nay. Tích này cũng khá giống với tích tại Đền Mẫu Hưng Yên.
Truyền thuyết còn kể một dị bản khác rằng: Xưa kia, đoạn đê ở làng quê Ninh Sở bị vỡ. Người dân trong làng tìm mọi cách để đắp lại nhưng đều không thành. Sau đó, đích thân nhà Vua cùng dân làng ra sông Nhị Hà cầu khấn, làm lễ xin Tứ Vị Thánh Nương cho hạp long khúc đê, dân làng sẽ xin lập đền thờ phụng. Lúc đó, có hai ông rắn đột nhiên xuất hiện, từ từ đấu đuôi lại với nhau. Từ đó đoạn đê được hạp long và không bao giờ bị vỡ nữa.
Chú thích
-
Long Bằng, Truyền thuyết và lễ hội về tứ vị thánh nương ở đền Lộ (Hà Nội) qua đối sánh với truyền thuyết và lễ hội về Dương Thái Hậu ở điện Quốc Mẫu (Giang Môn, Trung Quốc), luận văn cao học chuyên ngành văn học lưu tại Thư viện Khoa Văn, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, 2012.
-
Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr.96, 97.