Phạm Ngũ Lão (1255–1320) là danh tướng nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1288. Đương thời, danh tiếng của ông chỉ xếp sau Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – người được xem như vị tướng vĩ đại nhất lịch sử quân sự Việt Nam.
Đức ông Phạm Tu (chữ Hán: 范 脩, 476-545) Tiền Lý triều Tả tướng, Trưởng Ban võ của nhà nước Vạn Xuân, công thần khai quốc nhà Tiền Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân đội nhà Lương, thành lập nước Vạn Xuân độc lập. Phạm Tu sinh ngày 10 tháng 3 năm Bính Thìn (tức 19 tháng 4 năm 476), cha ông là Phạm Thiều, người gốc Yết (Hung Nô), mẹ là Lý Thị Trạch tại trang Quang Liệt, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Sĩ Nhiếp hoặc Sĩ Tiếp (chữ Hán: 士燮; 137 – 226) là Thái thú Giao Chỉ vào cuối đời nhà Hán. Qua giai đoạn Tam Quốc, ông cát cứ và cai trị Giao Châu như một quốc gia độc lập từ 187 đến 226.
Lê Tuấn Mậu (chữ Hán: 黎俊楙) là đô ngự sử thời Lê sơ, đỗ tiến sĩ vào năm 1490, sau bị Mạc Đăng Dung giết. Đến thời Lê Trung Hưng thì được truy phong phúc thần. Theo một vài nguồn thì ông còn là một thượng thư.
Cụ Dương Khuê (1839-1902), hiệu Vân Trì, xuất thân trong một gia đình nhà Nho; là con cả Đô ngự sử Dương Quang, và là anh ruột của danh sĩ Dương Lâm; quê ở làng Vân Đình huyện Sơn Minh phủ Ứng Hòa tỉnh Hà Đông (nay thuộc thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội).
Nhà Triệu hay nước Nam Việt nói chung là một triều đại có nhiều điểm đặc biệt, khiến các sử gia đời sau không khỏi lúng túng. Người thì phân nhà Triệu vào trong lịch sử nước ta, người lại cho rằng không phải. Tuy nhiên có hai chuyện mà chúng ta biết rất rõ: Triệu Đà là người xưng ngôi Hoàng đế đầu tiên ở đất Việt; và nhà Triệu đã dám giết sứ thần nhà Hán và những kẻ phản bội định dâng nước Việt cho nhà Hán. Trong việc chống lại phương Bắc của nước Nam Việt thời kỳ này, không thể không nhắc tới thừa tướng Lữ Gia. Ông là một vị quan đại thần gắn bó với Giang Sơn trong lúc gian nguy chống lại quân Hán xâm lược.
Dương Lâm tự Vân Hồ, Thu Nguyên, Mộng Thạch, biệt hiệu Quất Tẩu, Dương Công, sinh ngày 18 tháng 12 năm 1851, trong một gia đình nhà nho thanh bạch, có truyền thống hiếu học, tại làng Vân Đình, tổng Phương Đình, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Ứng Hòa, Hà Nội). Thân phụ ông là Dương Quang, một người nổi danh trong giới học sĩ, được các bậc danh công quý trọng; thân mẫu là Bùi Thị Tôn, con gái Thượng thư họ Bùi làng Thịnh Liệt, một họ lớn sản sinh nhiều nhà văn học nổi tiếng như Bùi Xương Trạch, Bùi Huy Bích. Ông là em ruột nhà thơ Dương Khuê, kém Dương Khuê 12 tuổi.
Truyền thuyết ở cả hai làng kể rằng, vào cuối thời Trần (thế kỷ XIII), ở vùng Bối Khê có bà mẹ trẻ, do dẫm chân vào vết chân người khổng lồ trên đá mà hoài thai sinh ra một cậu con trai. Cậu bé rất khôi ngô, đĩnh ngộ, thuở nhỏ, do nhà nghèo, cậu bé thường nương náu cửa chùa làng và sau đó đi tu.
Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân (1850 – 1914) thế danh Nguyễn Văn Khiêm, húy Minh Khiêm, pháp hiệu Liễu Khiêm-Diệu Nghĩa. Sinh ngày 15 tháng 07 năm Canh Tuất (1850) tại làng Bà Điểm, tỉnh Gia Định. Ngài sinh ra trong một gia đình nông dân, hai vị thân sinh do tham gia vào cuộc nổi dậy chống sưu cao thuế nặng của triều đình nhà Nguyễn nơi Mười Tám Thôn Vườn Trầu và Bưng Tầm Lạc, nên gởi Ngài lại nhờ bà con nuôi giúp để lánh mặt, tránh những đợt truy lùng gắt gao của hương hào địa chủ.
Thiền sư Đạo Trung Thiện Hiếu (1743 – 1799), thường được tôn gọi là Tổ Đỉa, thuộc phái thiền Lâm Tế ở Đàng trong thế hệ thứ 38.
Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng (1818 – 1872) là một vị cao tăng triều Nguyễn, Sư thuộc thiền phái Lâm Tế Liễu Quán, đời pháp thứ 40. Ngài xuất thân từ tổ đình Long Sơn Bát Nhã (Phú Yên) và là cao tăng của Tăng cang Tánh Thông Giác Ngộ (1774 – 1842). Dưới mái chùa Bát Nhã, Ngài đã được thầy trao truyền diệu pháp và cho tham phương học đạo với các đại sư đương thời. Noi gương công cuộc hoằng pháp của các bậc tổ sư. Ngài phát tâm vân du giáo hóa, từng dừng chân ở nhiều chùa cảnh thuộc các tỉnh Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Thuận và vào cả tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Thiền sư Ngộ Chân (? – ?) thuộc phái thiền Lâm Tế, chưa rõ năm sanh, chỉ biết Sư đến lập chùa Hang ở trên núi Chứa Chan (hay núi Gia Ray), ở khe Gia Lào để tu hành, Sư gọi hang núi này là “Long Cốc” (hang Rồng) vì vậy Thiền sư Ngộ Chân còn được tôn gọi là “Hòa thượng Long Cốc”.