Tâm sự lời cuối với Bồ-tát Thích Quảng Đức và dặn dò sư tăng bảo vệ ngài ở chùa Ấn Quang, Hòa thượng Thích Đức Nghiệp khẩn cấp chuẩn bị cuộc tự thiêu sáng mai.
Các đệ tử và những người từng được gặp Bồ-tát Thích Quảng Đức đều kể rằng Bồ-tát có ánh mắt hiền từ, đôi khi phảng phất nét buồn trầm lặng.
Thiền sư Phúc Điền, hiệu An Thiền, người gốc Hà Tây (nay là Hà Nội) sinh ra và xuất gia vào khoảng triều Tây Sơn, hoằng dương đạo pháp vào các triều Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Ngài được biết đến với hai công hạnh nổi bật.
Thiền sư Minh Hành (1595-1659), họ Hà, tên không rõ, pháp danh là Minh Hành, pháp hiệu là Tại Tại, là người phủ Kiến Xương, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc (nay là địa khu Phủ Châu, tỉnh Giang Tây).
Chuyết Công họ Lý, tên không rõ[1] (1590-1644), pháp hiệu là Viên Văn, người ta quen gọi ngài là Chuyết Công. Ngài sinh ngày 02/02 năm Canh Dần, niên hiệu Vạn Lịch, đời Minh, tại vùng Tiệm Sơn, Phúc Kiến[2], Trung Hoa.
Trong văn bản Quang Minh tự sự tích – cổ tích Phật Tổ truyền đăng thực lục 光明寺事跡 古跡佛祖傳燈寔錄 bản chữ Hán lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.1546 cho biết: Tháp 永銘寶塔 Vĩnh Minh thờ xá lợi: Tổ Ma Ha Sa Môn tên tự là Phổ Giác Hòa thượng, húy Đức, tự Huyền Chân Thích Viên Minh Luật Thiền sư – Hoàng Tông Thánh Tổ, Đương cảnh chúa tể Thành Hoàng đại vương, Trung Quốc đại đế: 永銘寶塔摩訶沙門字普覺和尚, 諱德, 字玄真, 釋圓明律禪師皇宗聖祖當境主宰城隍大王,中國大帝
Cố lão Hòa thượng Thích Thanh Bích có tên chữ Nguyễn Quang Bích, sinh năm Quý Sửu (1913)(1) tại thôn Mai Xá, xã Đồng Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt, khoa bảng. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Hữu Thượng, thân mẫu là cụ bà Dương Thị Cẩm.
Hòa thượng họ Trần, pháp húy là Thanh Nhu, pháp hiệu là Thích Trạm Trạm thiền sư. Ngài sinh năm Tân Dậu (1861), quê xã Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định trong một gia đình kính tín Tam bảo.
Trần Nhân Tông – sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258, mất ngày 16 tháng 12 năm 1308, tên khai sinh là Trần Nhâm, tự là Thanh Phúc, Ngài là con trưởng của Đức Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm.
Thiền sư Thảo Đường là người Trung Hoa, là đệ tử của thiền sư Trùng Hiển ở Tuyết Đậu(1) (Tuyết Đậu Trùng Hiển), đời pháp thứ ba phái Vân Môn(2), Sư sang ở Chiêm Thành truyền đạo.
Thiền sư Đạo Huệ (? – 1172) Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông Sư họ Âu, quê ở Chân Hộ làng Như Nguyệt, tướng mạo đoan trang, tiếng nói rất trong trẻo.
Thích Đạo Thiền người Giao Chỉ, sớm xuất gia lập hạnh tinh nghiêm, giới luật trong sạch, chẳng kém các bậc cao đức. Dân chúng tăng tục đều kính quí đức khắc kỷ và sự dốc chí tu hành của Sư